Chữ và nghĩa: ‘Tên cúng cơm’ là tên gì?

Chữ và nghĩa: ‘Tên cúng cơm’ là tên gì?

(Thethaovanhoa.vn) – Tên này hiển nhiên là được sử dụng với một người nào đó khi đã từ biệt cuộc đời sang thế giới bên kia. Bởi “cúng cơm” là một nghi lễ mà người thân thực hiện để cúng người mới mất vào các bữa ăn (theo phong tục) trong 49 ngày đầu.

Chữ và nghĩa: 'Quá đát', 'hết đát'… vẫn dùng đấy thôi!

Chữ và nghĩa: ‘Quá đát’, ‘hết đát’… vẫn dùng đấy thôi!

“ Đát ” ở đây đương nhiên không phải là một từ thuần Việt. Trong tiếng Việt lâu nay, “ đát ” chỉ xuất hiện là một thành tố trong phối hợp duy nhất là “ bi đát ”. “ Đát ” trong “ quá đát ” là cách phát âm ( dù chưa chuẩn ) của một từ tiếng Anh : date, có nghĩa là ngày ( tháng ) .

Chắc nhiều người nghĩ rằng, tên cúng cơm chính là tên thật (tên thường gọi) của ai đó. Bởi ta vẫn thường thấy “các cụ” khi cúng người chết bằng cách xướng chính tên người đó (vẫn được gọi hàng ngày khi còn sống) trong bài khấn.

Nhưng thực tiễn không hẳn thế. Không hẳn thế tức là có sự độc lạ trong ý niệm và cách hành xử với “ tên cúng cơm ” trong dân gian .

Với người Việt (và nhiều dân tộc phương Đông khác, điển hình là Trung Quốc), mỗi người sống trong nhân gian có không dưới 5 loại tên: tên chính, nhũ danh, tên tự, tên hiệu, tên húy, tên tục, tên thụy… Tất nhiên, mỗi một tên lại có chức năng và giá trị khác nhau.

“ Tên chính ” ( hay tên thật, tên thường gọi ) là tên chính thức đặt cho ai đó sau khi sinh, được ĐK khai sinh, vào sổ hộ tịch và được coi là cái tên có tính pháp lý .
Chú thích ảnh
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

“Nhũ danh” là tên đặt cho đứa trẻ lúc mới sinh. Có người nói “nhũ danh” chỉ dùng cho phụ nữ. Không phải. Mọi đứa trẻ đều có quyền được đặt nhũ danh. “Nhũ” ở đây chỉ “cái vú”, hàm ý tên của “trẻ đang còn bú mẹ”.

“ Tên tục ” là tên cha mẹ đặt cho con lúc mới sinh, còn rất nhỏ, thường xấu xí, theo ý niệm là vì tên trẻ mang nghĩa xấu, không hay thì mới tránh được sự quan tâm, quấy phá của ma quỷ. Bây giờ tên loại này đã giảm nhiều chứ rất lâu rồi có những đứa trẻ tên xấu tệ xấu hại, đến nỗi người ngoài nghe nói phải đỏ mặt .
“ Tên tự ” ( hay tên chữ ) là tên đặt bằng từ Hán Việt và thường dựa vào nghĩa của tên vốn có ( thông dụng trong giới trí thức thời trước, những nhà Nho ). Chẳng hạn, tên tự của Nguyễn Du là Tố Như, của Nguyễn Đình Chiểu là Mạnh Trạch, Nguyễn Công Trứ là Tồn Chất …
“ Tên hiệu ” là tên sống sót bên cạnh tên vốn có, do những người trí thức thời phong kiến tự đặt thêm cho mình ( thường là một từ Hán Việt có ý nghĩa được lựa chọn theo ý nguyện, sở trường thích nghi ). Chẳng hạn, Nguyễn Trãi có hiệu là Ức Trai, Lê Hữu Trác có hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, hay tên hiệu của Đoàn Thị Điểm là Hồng Hà Nữ sĩ …

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *