Moskva – Wikipedia tiếng Việt
Moskva (tiếng Nga: Москва, chuyển tự. Moskva, IPA [mɐˈskva]; phiên âm: “Mát-xcơ-va”, đôi khi viết theo tiếng Anh thành “Moscow”), là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Nga. Thành phố nằm bên sông Moskva, ở trong Khu vực kinh tế trung tâm nước Nga (Центра́льный экономи́ческий райо́н), với dân số ước tính khoảng 12,6 triệu cư dân trong phạm vi thành phố,[1] trong khi có hơn 17 triệu cư dân trong khu vực đô thị,[2] và hơn 20 triệu cư dân trong toàn Khu vực Thủ đô Moskva.[3] Thành phố có diện tích đạt 2.511 kilômét vuông (970 dặm vuông Anh), trong khi khu vực đô thị bao gồm 5.891 kilômét vuông (2.275 dặm vuông Anh),[2] và khu vực đô thị bao gồm 26.000 kilômét vuông (10.000 dặm vuông Anh).[3] Moskva nằm trong danh sách các thành phố lớn nhất thế giới, là thành phố đông dân nhất hoàn toàn trong Châu Âu đại lục[2] khu vực đô thị đông dân nhất ở Châu Âu,[3] và cũng là thành phố lớn nhất tính theo diện tích trên lục địa Châu Âu.[4][5]
Ban đầu được xây dựng vào năm 1147 với tư cách là một thị xã nhỏ, Moskva đã tăng trưởng trở thành một thành phố thịnh vượng và hùng mạnh, từng là TP. hà Nội của Đại công quốc Moskva. Khi Đại công quốc Moskva tăng trưởng thành Sa quốc Nga, Moskva vẫn là TT kinh tế tài chính và chính trị trong hầu hết lịch sử dân tộc của Sa hoàng. Khi Sa hoàng được cải tổ thành Đế quốc Nga, Thành Phố Hà Nội được chuyển từ Moskva đến Sankt-Peterburg, làm giảm tác động ảnh hưởng của thành phố. Thủ đô sau đó được chuyển trở lại Moskva sau Cách mạng Nga và thành phố được đưa trở lại làm TT chính trị của Nga Xô viết và Liên Xô. Khi Liên bang Xô viết giải thể, Moskva vẫn là Hà Nội Thủ Đô của Liên bang Nga đương thời và mới được xây dựng .
Là siêu đô thị cực bắc và lạnh nhất trên thế giới, và với lịch sử hơn 8 thế kỷ, Moskva được quản lý như một thành phố liên bang đóng vai trò chính trị, kinh tế, trung tâm văn hóa và khoa học của Nga và Đông Âu. Là một thành phố toàn cầu,[6] Moskva có một trong các nền kinh tế đô thị lớn nhất, và là một trong các thành phố đắt đỏ nhất thế giới, và cũng là một trong những điểm du lịch phát triển nhanh nhất trên thế giới.[7] Moskva là nơi có số tỷ phú cao thứ ba của bất kỳ thành phố nào trên thế giới,[8] và có số lượng tỷ phú cao nhất của bất kỳ thành phố nào ở Châu Âu. Trung tâm kinh doanh quốc tế Moskva là một trong những trung tâm tài chính lớn nhất của Châu Âu và thế giới, và có một số trong Những tòa nhà chọc trời cao nhất Châu Âu.[9] Moskva cũng là quê hương của công trình kiến trúc tự do cao nhất ở Châu Âu, Tháp Ostankino, và là thành phố đăng cai của Thế vận hội mùa hè 1980, một trong những thành phố đăng cai của FIFA World Cup 2018.
Bạn đang đọc: Moskva – Wikipedia tiếng Việt
Là TT văn hóa truyền thống của Nga, Moskva từng là ngôi nhà của những nghệ sĩ, nhà khoa học và nhân vật thể thao Nga do sự hiện hữu của rất nhiều kho lưu trữ bảo tàng, học viện chuyên nghành và tổ chức triển khai chính trị và nhà hát. Thành phố là nơi tọa lạc của 1 số ít UNESCO Di sản Thế giới, và nổi tiếng với kiến trúc và tọa lạc kiến trúc Nga, đặc biệt quan trọng là những tòa nhà lịch sử vẻ vang như Nhà thờ Saint Basil, Quảng trường Đỏ và Điện Kremli ở Moskva, [ 10 ] [ 11 ] trong đó sau này đóng vai trò là cơ quan quyền lực của nhà nước Nga. [ 12 ] [ 13 ] Moskva là nơi đặt trụ sở của nhiều Các công ty của Nga trong nhiều ngành, ví dụ điển hình như kinh tế tài chính và công nghệ tiên tiến. Matxcova được Giao hàng bởi một mạng lưới trung chuyển tổng lực, gồm có 4 trường bay quốc tế, [ 14 ] [ 15 ] chín nhà ga đường tàu, một mạng lưới hệ thống xe điện, một Hệ thống tàu điện một ray ở Moskva, và đáng chú ý quan tâm nhất là ” Moscow Metro “, mạng lưới hệ thống tàu điện ngầm sinh động nhất ở Châu Âu và là một trong những mạng lưới hệ thống luân chuyển nhanh lớn nhất trên quốc tế. [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] Với hơn 40 % chủ quyền lãnh thổ được bao trùm bởi cây xanh, đây là một trong những thành phố xanh nhất ở châu Âu và quốc tế. [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ]
Những tài liệu nói về Moskva có từ năm 1147 khi nó còn là một thị xã ít người biết đến trong một tỉnh nhỏ, với hầu hết dân cư thuộc nhóm ngôn từ Phần Lan-Ugria, người Merya. Năm 1156, công tước Yury Dolgoruky cho xây tường gỗ và đào hào sâu bao quanh thành phố để chống lại sự trộm cắp, cướp bóc. Do đó dân chúng được bảo vệ rất tốt cho đến tận năm 1177 thì thành phố bị thiêu hủy trọn vẹn và dân cư đã bị chết rất nhiều. Sau cuộc cướp phá năm 1237 – 1238, khi mà quân Mông Cổ thiêu hủy trọn vẹn thành phố và giết chóc dân cư, Moskva đã được phục sinh và trở thành Hà Nội Thủ Đô của một công quốc độc lập .
Năm 1300, Moskva được quản lý bởi Daniil Aleksandrovich, con trai của Aleksandr Yaroslavich Nevsky và là thành viên của triều đại nhà Rurik. Vị trí thuận lợi trên đầu nguồn sông Volga góp phần vào việc mở rộng vững chắc. Moskva được ổn định và phát triển rực rỡ trong nhiều năm và là điểm thu hút của nhiều người tỵ nạn trên toàn lãnh thổ Nga. Năm 1304, Yury của Moskva giao tranh với Mikhail của Tver để giành ngôi vị công tước Vladimir. Ivan I cuối cùng đánh bại quân Tver để trở thành chủ của công quốc Vladimir, và là người thu thuế duy nhất cho các nhà vua Mông Cổ. Do cống nộp nhiều nên Ivan giành được nhiều sự nhân nhượng của các Hãn (Khan). Không giống như các công quốc khác, Moskva không được phân chia cho các con trai mà truyền cho con trai lớn nhất.
Kim Trướng hãn quốc (hay Hãn quốc Kipchak) thoạt tiên cố gắng giới hạn ảnh hưởng của Moskva, nhưng do sự lớn mạnh của Đại công quốc Litva đã đe dọa toàn Nga nên vị Hãn lúc đó đã phải tăng cường sức mạnh cho Moskva để cân bằng với Litva. Điều này đã cho phép nó trở thành một trong những thành phố hùng mạnh nhất tại Nga. Năm 1480, Ivan III cuối cùng đã giải phóng Nga khỏi sự thống trị của người Tatar (Xem Trận chiến trên sông Ugra) và Moskva trở thành thủ đô của đế chế bao gồm toàn Nga và Siberia và một phần các lãnh thổ khác.
Sự chuyên chế của những Sa hoàng cuối thời kỳ đó như Ivan Hung đế đã dẫn đến sự tan rã của đế chế, mặc dầu nó đã được lan rộng ra. Năm 1571, người Tarta từ Hãn quốc Krym đã chiếm và thiêu hủy Moskva. Từ 1610 đến 1612, quân đội của Liên bang Ba Lan-Litva xâm lăng Moskva, và vua Sigismund III của Ba Lan đã có những nỗ lực để chiếm đoạt ngôi báu và sau đó hợp nhất 2 vương quốc Slav. Tuy nhiên, sự cố gắng của quân đội Ba Lan-Litva chỉ nhận được sự ủng hộ nửa vời từ trong nước họ và sự can thiệp đã bị chỉ trích can đảm và mạnh mẽ từ hạ viện Liên bang. Vì vậy năm 1612, nhân dân Moskva đã nổi dậy chống lại lực lượng Ba Lan-Litva và chiếm Kremli từ tay họ. Năm 1613, hội nghị đế chế đã bầu Mikhail Fyodorovich Romanov ( Михаил Фёдорович Романов ) làm Sa hoàng nước Nga, thiết lập triều đại nhà Romanov .Moskva không phải là kinh đô nước Nga từ năm 1703 khi Pyotr Đại đế thiết kế xây dựng Sankt-Peterburg trên sông Neva gần bờ biển Baltic làm kinh đô. Khi Napoléon Bonaparte xâm lược Nga vào năm 1812, người dân Moskva đã sơ tán và tự đốt cháy thành phố vào ngày 14 tháng 9, khi quân đội của Napoléon tiến vào. Quân đội của Napoléon, do thiếu thốn lương thực, thực phẩm và lạnh ngắt đã phải rút lui .Tháng 1 năm 1905, người dân Moskva đi bầu thị trưởng thành phố và Aleksandr Adrianov đã trở thành thị trưởng chính thức tiên phong của Moskva. Sau cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917, Lenin đã chuyển Hà Nội Thủ Đô từ Sankt-Peterburg về Moskva vào ngày 5 tháng 3 năm 1918 do lo lắng sự xâm lăng từ quốc tế .Là đầu mối quan trọng trong mạng lưới hệ thống đường sắt của Liên Xô cùng với Kiev và Sankt-Peterburg, thành phố này là tiềm năng xâm lăng kế hoạch của Đức năm 1941. Tháng 11 năm 1941, Cụm tập đoàn lớn quân Trung tâm của Đức đã phải dừng bước trước ngoại ô thành phố và sau đó bị đẩy lui trong Trận Moskva ( 1941 ) .
2010.Dân số Moskva từ 1350
Năm | Dân số | Năm | Dân số | Năm | Dân số |
---|---|---|---|---|---|
1400 | 40.000 | 1811 | 270.200 | 1912 | 1.617.157 |
1638 | 200.000 | 1813 | 215.000 | 1920 | 1.027.300 |
1710 | 160.000 | 1825 | 241.500 | 1926 | 2.101.200 |
1725 | 145.000 | 1840 | 349.100 | 1939 | 4.609.200 |
1738 | 138.400 | 1856 | 368.800 | 1959 | 6.133100 |
1775 | 161.000 | 1868 | 416.400 | 1970 | 7.194.300 |
1785 | 188.700 | 1871 | 601.969 | 1979 | 8.142.200 |
1888 | 753.459 | 1989 | 8.972.300 | ||
1897 | 1.038.600 | 2002 | 10.383.000 |
Dữ liệu khí hậu của Moscow (VVC) 1981–2010 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 8.6 | 8.3 | 17.5 | 28.9 | 33.2 | 34.9 | 38.2 | 37.3 | 32.3 | 24.0 | 14.5 | 9.6 | 38,2 |
Trung bình cao °C (°F) | −4 (25) |
−3.7 | 2.6 | 11.3 | 18.6 | 22.0 | 24.3 | 21.9 | 15.7 | 8.7 | 0.9 | −3 (27) |
9,6 |
Trung bình ngày, °C (°F) | −6.5 | −6.7 | −1 (30) |
6.7 | 13.2 | 17.0 | 19.2 | 17.0 | 11.3 | 5.6 | −1.2 | −5.2 | 5,8 |
Trung bình thấp, °C (°F) | −9.1 | −9.8 | −4.4 | 2.2 | 7.7 | 12.1 | 14.4 | 12.5 | 7.4 | 2.7 | −3.3 | −7.6 | 2,1 |
Thấp kỉ lục, °C (°F) | −42.2 | −38.2 | −32.4 | −21 (−6) |
−7.5 | −2.3 | 1.3 | −1.2 | −8.5 | −16.1 | −32.8 | −38.8 | −42,2 |
Giáng thủy mm (inch) | 52 (2.05) |
41 (1.61) |
35 (1.38) |
37 (1.46) |
49 (1.93) |
80 (3.15) |
85 (3.35) |
82 (3.23) |
68 (2.68) |
71 (2.8) |
55 (2.17) |
52 (2.05) |
707 (27,83) |
% độ ẩm | 83 | 80 | 74 | 67 | 64 | 70 | 74 | 77 | 81 | 81 | 84 | 85 | 76,7 |
Số ngày mưa TB | 0.8 | 0.7 | 3 | 9 | 13 | 14 | 15 | 15 | 15 | 12 | 6 | 2 | 105,5 |
Số ngày tuyết rơi TB | 18 | 15 | 9 | 1 | 0.1 | 0 | 0 | 0 | 0.1 | 2 | 10 | 17 | 72,2 |
Số giờ nắng trung bình hàng tháng | 33 | 72 | 128 | 170 | 265 | 279 | 271 | 238 | 147 | 78 | 32 | 18 | 1.731 |
Nguồn: [22][23][24][25] |
Văn hóa, nghệ thuật và thẩm mỹ[sửa|sửa mã nguồn]
Quang cảnh Moskva, với Nhà thờ Chúa Cứu thế ở bên trái, điện Kremli ở bên phải Nhà thờ hình củ tỏi Thánh Basel trái, và Nhà hát Nhỏ (Malyi), phảiNhà hát Lớn ( Bolshoi ), , và Nhà hát Nhỏ ( Malyi ) ,
Moskva là trung tâm của múa ba lê (ballet) và các nghệ thuật múa Nga. Các nhà hát và studio ba lê rải rác khắp Moskva. Những cái nổi tiếng nhất là Nhà hát Lớn và Nhà hát Nhỏ. Trong thời kỳ Xô viết giá vé khá rẻ thường là dưới $1, nhưng hầu hết vé được phân phối theo đặc quyền, người dân chỉ có thể mua vé chợ đen. Sau này giá thay đổi rất nhiều.
Mặc dù ít hơn một phần tư dân số Nga sống ở nông thôn nhưng những người Moskva cũng giống như những người dân những thành phố khác vẫn gắn liền với nông thôn. Rất nhiều người có nhà ở khu vực nông thôn ( tiếng Nga : дача, phát âm ” đacha ” ) để dành cho những ngày nghỉ cuối tuần và hội hè. Những ngôi nhà này cũng được sử dụng làm nhà nghỉ cho những người cao tuổi. Có rất nhiều khu vui chơi giải trí công viên và vườn hoa trong thành phố .
Những năm sau chiến tranh là cuộc khủng hoảng về nhà ở đã được giải quyết bằng các ngôi nhà lắp ghép. Khoảng 13.000 các ngôi nhà được tiêu chuẩn hóa và đúc sẵn như thế phục vụ cho phần lớn dân cư Moskva. Chúng được xây cao 9, 12, 17, 21 hay 24 tầng. Các căn hộ được xây dựng và trang bị một phần đồ đạc tại nhà máy trước khi được xây dựng và sắp xếp vào các cột cao. Bộ phim hài nổi tiếng thời kỳ Xô viết là Số phận trớ trêu, hay Chúc xông hơi nhẹ nhõm ! nhại lại phương pháp kết cấu xây dựng vô hồn này. Nội dung của phim như sau:
- Một sinh viên vừa mới tốt nghiệp đại học trở về nhà mình sau buổi dạ hội tốt nghiệp cử nhân với trạng thái say mềm ngoài sân bay và thức dậy ở Leningrad do những bạn bè của anh ta lại gửi anh đến đó một cách ngẫu nhiên. Anh bắt taxi đến địa chỉ nhà mình, địa chỉ này cũng tồn tại ở Leningrad và sử dụng chìa khóa của mình để mở cửa. Mọi đồ đạc và tài sản được chuẩn hóa đến nỗi anh ta cũng không thể nhận ra đó không phải là nhà mình cho đến tận khi chủ thực sự của căn hộ trở về.
Bộ phim đã đánh vào tình cảm của những người Nga đang xem bộ phim qua những chiếc ti vi tiêu chuẩn hóa trong căn hộ chung cư cao cấp cũng tiêu chuẩn hóa của mình. Bộ phim này được trình chiếu trên ti vi trong mọi buổi đêm trước năm mới .Nói như vậy không có nghĩa là văn hóa truyền thống, thẩm mỹ và nghệ thuật của nước Nga nói chung và của người Moskva nói riêng là đơn điệu và nghèo nàn. Trái lại, nền văn hóa-nghệ thuật của người dân Moskva trong gần 900 năm qua cực kỳ tăng trưởng. Tại Moskva lúc bấy giờ có hơn 70 viện kho lưu trữ bảo tàng. Trong đó có rất nhiều viện kho lưu trữ bảo tàng nổi tiếng quốc tế như Viện bảo tàng lịch sử dân tộc ( Исторический музей ), Viện kho lưu trữ bảo tàng vương quốc Tretyakov ( Государственный Третьяковская галерея ), Viện bảo tàng kiến trúc Shchusev ( Музей архитектуры им. А. В. Щусева ) v.v.
Các nhà văn lớn của Nga cho dù có thể không phải là người Moskva nhưng đã có thời gian dài sống ở đó như Tolstoy, Bunin, Chekhov v.v. đã cho ra đời nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới như Chiến tranh và hòa bình.
Tại Moskva có rất nhiều trường đại học. Lớn nhất và nổi tiếng nhất là Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva mang tên Lomonosov (tiếng Nga: Московский Государственный Университет имени М.В.Ломоносова, viết tắt: МГУ, hay MGU) nằm trên Đồi Chim sẻ (Vorobyovy Gory) trong một tòa nhà cao 240m. Hiện nay trường này có 30.000 sinh viên và 7.000 nghiên cứu sinh.
Trường Đại học kỹ thuật quốc gia Moskva mang tên Bauman là trường đại học kĩ thuật hàng đầu của nước Nga, nơi đây là cái nôi đào tạo nên các nhà bác học, các tổng công trình sư, các kỹ sư trưởng nổi tiếng về vũ trụ, hàng không và kĩ thuật quân sự (tên lửa, máy bay chiến đấu, xe tăng, xe thiết giáp, lò phản ứng hạt nhân, siêu máy tính, vũ khí công nghệ cao).
Xem thêm: Polyp đại trực tràng có nguy hiểm không?
Xem thêm: Danh sách các trường đại học ở Nga
Tu viện NovodevichyNhững điểm du lịch lôi cuốn hành khách là những di sản quốc tế được UNESCO công nhận như điện Kremli, Quảng trường Đỏ và nhà thời thánh ở Kolomenskoye, đều là những khu công trình được thiết kế xây dựng trong khoảng chừng thế kỷ 14 đến thế kỷ 17. Các điểm lôi cuốn khác gồm có vườn bách thú, được lan rộng ra vào thập niên 1990. Moskva cũng là điểm sau cuối của tuyến đường tàu xuyên Xi-bê-ri dài 9.300 km tới Vladivostok. Thành phố này đẹp nhất khi đến thăm vào giữa mùa đông khi mà những đường phố bị bao trùm bởi tuyết và cảnh tranh tối tranh sáng của mùa đông lục địa. Tuy nhiên do nhiệt độ tiếp tục xuống đến dưới – 25 °C nên mùa hè hoặc mùa thu đến sớm hoàn toàn có thể cho những cuộc thăm viếng thuận tiện hơn nếu như hành khách không phải là người quá lãng mạn .
Giá cả hoạt động và sinh hoạt[sửa|sửa mã nguồn]
Giá cả một số ít sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ so với người ngoại bang cao hơn so với người trong nước. Sự nghiên cứu và điều tra giá thành hoạt động và sinh hoạt do Mercer Human Resource Consulting triển khai đã đặt Moskva vào vị trí thứ hai sau Tokyo, làm nó trở thành thành phố đắt đỏ nhất châu Âu. Đối với dân địa phương, những căn hộ chung cư cao cấp nhỏ được chu cấp bởi chính quyền sở tại trong thời kỳ Xô viết, cùng với những ngân sách tiện lợi ở mức cực kỳ thấp và những khoản thuế thu nhập hoàn toàn có thể tránh được đã làm giá thành hoạt động và sinh hoạt thấp xuống rất nhiều. Nhìn vào Ngân sách chi tiêu luân chuyển, đi lại sẽ cho ra một minh họa tốt. Một chuyến taxi từ trường bay quốc tế Sheremetyevo-2 sẽ có giá so với người quốc tế không biết tiếng Nga là USD 60 ; với người quốc tế biết tiếng Nga là USD 30 – $ 40. Những người dân Moskva địa phương sẽ mặc cả giá xuống mức USD 15 – 20 hoặc sẽ tránh không đi taxi riêng mà đi chung với nhau đến ga metro gần nhất với giá 50 xu Mỹ .
Trong thời gian gần đây tại Moskva xuất hiện rất nhiều các nhà hàng ăn uống với giá cả dao động nhiều. Giá đồ ăn trung bình trên một người trong các nhà hàng trung và cao cấp sẽ từ $30 đến $200, đặc biệt nếu có gọi rượu vang nổi tiếng. Những đồ ăn kiểu “căng tin” trong các stolovaya (tiếng Nga: столовая – nhà ăn tự phục vụ) có giá khoảng ba đôla Mỹ (47.000 đ tiền Việt). Hệ thống các nhà hàng, như “Moo-Moo”, cung cấp đồ ăn kiểu căng tin có chất lượng theo thực đơn kiểu Anh có giá khoảng 5 đô la Mỹ cho mỗi người. Mặc dù phần đông người Moskva không thường xuyên ăn uống thậm chí trong các nhà hàng ăn rẻ tiền nhất, nhưng rất nhiều nhà hàng “bậc trung” mới vẫn xuất hiện và mở cửa, nhắm vào các gia đình trong những ngày nghỉ cuối tuần. Một loạt các cửa hàng bán đồ ăn nhanh mọc xung quanh các nhà ga xe lửa và metro. Hệ thống này bao gồm cả các cửa hàng khắp mọi nơi của McDonald’s và các hệ thống khác, đáng kể nhất là Rostiks, chuyên bán các đồ ăn làm từ gà. Ngoài ra hàng loạt các cửa hàng bán cà phê cũng mọc ra xung quanh thành phố này.
Các khu vực du lịch đáng quan tâm[sửa|sửa mã nguồn]
Tháp chuông Ivan Đại đế trong quần thể kiến trúc điện Kremli
Giao thông và vận tải đường bộ[sửa|sửa mã nguồn]
Moskva có bốn trường bay là : trường bay quốc tế Sheremetyevo, trường bay quốc tế Domodedovo, trường bay Bykovo và trường bay quốc tế Vnukovo .Giao thông trong thành phố hoàn toàn có thể kể đến mạng lưới hệ thống tàu điện ngầm ( metro ) Moskva, là một mạng lưới hệ thống metro tuyệt vời, những nhà ga được trang trí bằng những bức tranh treo tường hay khảm vào tường có giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật. Bắt đầu hoạt động giải trí vào ngày 15 tháng 5 năm 1935, lúc bấy giờ mạng lưới hệ thống này có 11 tuyến đường với tổng chiều dài 278 km và hơn 170 ga. Tại những ga rất phổ cập những mô hình đèn chùm pha lê chiếu sáng. Hệ thống này là bận rộn nhất quốc tế với hơn 9 triệu lượt hành khách mỗi ngày và tại giờ cao điểm cứ mỗi 90 giây lại có một chuyến tàu. Hệ thống metro Moskva được phong cách thiết kế là những tuyến đường ” thẳng ” giao nhau tại khu vực gần TT thành phố. Ngoài ra còn có một tuyến đi theo đường ” tròn ” link tổng thể những tuyến kia .Do những ga metro đặt tương đối xa nhau ( so sánh với những thành phố khác ), hoàn toàn có thể tới 4 km, nên mạng lưới hệ thống xe buýt rất tăng trưởng. Các tuyến xe buýt chạy qua những ga metro và bao trùm hàng loạt khu vực dân cư. Thông thường cứ mỗi phút lại có một chuyến xe buýt và giá thành khá rẻ so với những thành phố lớn khác của châu Âu ( khoảng chừng 1USD / 1 chuyến ). Mỗi một phố chính trong thành phố đều có tối thiểu một tuyến xe buýt Giao hàng và không có một khu nhà căn hộ cao cấp nào trong số 13.000 căn hộ chung cư cao cấp lại phải mất hơn vài phút đi bộ. Ở đây cũng có những mạng lưới hệ thống xe điện trên đường ray ( Трамвай-tramvai ) và xe điện bánh hơi ( Троллейбус-trolleybus ). Trước đây rất ít người sử dụng xe hơi cá thể để đi lại do tiếp tục xảy ra ùn tắc giao thông vận tải. Tuy nhiên, phần đông những mái ấm gia đình trung lưu có xe hơi để đi lại trong những ngày nghỉ cuối tuần và tiệc tùng. Theo 1 số ít ước tính, có trên 2,5 triệu xe hơi lưu thông trên địa phận thành phố trong ngày ( 2004 ). 3 năm trở lại đây ( từ 2004 ) do sự tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ của nền kinh tế tài chính Liên Bang Nga, đặc biệt quan trọng là Moskva, số lượng xe hơi cá thể đã bùng nổ với sự phong phú về chủng loại, nguồn gốc, tắc đường đã trở thành ” chuyện thường ngày ở huyện “. Rất nhiều công chức đến công ty bằng xe riêng đã phải đi trước giờ thao tác buổi sáng ( 8-9 giờ ) cả tiếng đồng hồ đeo tay. Tắc đường trên diện rộng từ sáng đến đêm khuya .
Bóng đá là môn thể thao phổ cập nhất trong giới trẻ. Các câu lạc bộ bóng đá thủ đô hà nội như Dinamo, Spartak, Lokomotiv, CSKA là những câu lạc bộ có tên tuổi tại châu Âu. Tuy nhiên gần đây tệ nạn hooligan đã tăng trưởng ở Nga và gây không ít ảnh hưởng tác động xấu tới hình ảnh của bóng đá Nga. Các môn thể thao khác như bóng ném, bóng nước, bóng rổ cũng rất tăng trưởng ở đây .Các môn thể thao mùa đông thì có rất nhiều. Phần lớn người Nga đều có ván trượt tuyết và giày trượt băng và có rất nhiều khu vui chơi giải trí công viên lớn có khu vực để tập luyện những môn trượt tuyết, trượt băng. Có một số ít khu vui chơi giải trí công viên cho thuê ván / giày trượt với giá từ USD 1 đến USD 5 cho một giờ thuê. Moskva cũng có những đội khúc côn cầu trên băng có tên tuổi ở châu Âu .Moskva là chủ nhà của Thế vận hội mùa hè 1980, lúc đó môn đua thuyền buồm được tổ chức triển khai tại Tallinn ( Estonia ) .
Mặc dù dân số của Liên bang Nga giảm mỗi năm khoảng chừng 700.000 người ( 143,8 triệu * 0.5 % tỷ suất giảm ) vì tỷ suất sinh đẻ thấp, di cư, chết sớm và AIDS, nhưng dân số Moskva thì vẫn đạt tỷ suất tăng cao, đa phần do nhập cư ( mặc dầu những sách vở tùy thân trong nước không được cho phép dân không phải người thành phố này ở thủ đô hà nội quá 90 ngày mà không phải ĐK ). Những người Moskva mới này đã góp thêm phần làm nền kinh tế tài chính Hà Nội Thủ Đô tăng trưởng đến 20 %, ngược lại với sự đình trệ hoặc suy thoái và khủng hoảng trên hầu hết chủ quyền lãnh thổ Nga, tác dụng là nó tạo ra sự phân hóa rõ nét trong những năm gần đây. Hiện nay, Moskva là một trong những thành phố lớn nhất châu Âu .Theo số liệu của báo Forbes vào ngày 22 tháng 7 năm 2004, Moskva là thành phố có đông những nhà triệu phú nhất trên quốc tế. Hiện nay Moskva có 33 triệu phú, hơn Thành phố Thành Phố New York hai người .
Vấn đề khủng bố[sửa|sửa mã nguồn]
Khủng bố là mối đe dọa diễn ra gần đây cho Moskva. Cuộc chiến tranh kéo dài giữa Nga với những phần tử cực hữu của Chechnya đã dẫn đến tình trạng những nhóm người này sử dụng biện pháp khủng bố để chống lại chính quyền liên bang. Vào ngày 6 tháng 2 năm 2004 một quả bom đã phát nổ trong một chiếc ô tô trong đường hầm gần ga metro Avtozavodskaya làm chết ít nhất 40 người và làm thương nhiều người khác. Các hành động khủng bố khác có thể kể đến là vụ phá hủy hai tòa nhà chung cư tháng 9 năm 1999 (Xem Vụ đánh bom nhà chung cư ở Nga), vụ nổ trong đường hầm dành cho người đi bộ dưới quảng trường Pushkinskaya trong tháng 8 năm 2000 cũng như việc chiếm giữ nhà hát ở Dubrovka trong tháng 10 năm 2002 mà hơn 100 người đã chết khi các nhân viên của lực lượng an ninh Nga sử dụng khí gây mê để tấn công bọn khủng bố.
Thành phố kết nghĩa[sửa|sửa mã nguồn]
- Caroline Brooke. Moscow: A Cultural History. 2006 (Oxford University Press)
- William Craft Brumfield. A History of Russian Architecture (Seattle: Univ. of Washington Press, 2004) ISBN 978-0-295-98394-3
- Karel Neubert. “Portrait of Moscow”. 1964
- Albert J. Schmidt. The Architecture and Planning of Classical Moscow: A Cultural History. 1989
- Kathleen Berton. Moscow: An Architectural History. St. Martin’s, 1991
- Marcel Girard. “Splendours of Moscow and Its Surroundings”, trans. from French. 1967
- John Bushnell. “Moscow Graffiti: Language and Subculture”. Unwin Hyman, 1990
- S.S. Hromov et al. (eds.). “History of Moscow: An Outline”, trans. from Russian. 1981
- Galina Dutkina. “Moscow Days: Life and Hard Times in the New Russia”. Trans. Catherine Fitzpatrick. Kodansha America, 1995.
- “Mosca 1990-1993” by Giuseppe D’Amato in Il Diario del Cambiamento. Urss 1990 – Russia 1993. Greco&Greco editori, Milano, 1998. ISBN 88-7980-187-2 (The Diary of the Change. USSR 1990 – Russia 1993) Book in Italian.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Tiếng Anh :
Source: https://trangdahieuqua.com
Category: Chăm sóc body