Bangladesh – Wikipedia tiếng Việt

Bangladesh – Wikipedia tiếng Việt

Bangladesh (tiếng Bengal: বাংলাদেশ Bāṃlādēśa, phát âm: [ˈbaŋlad̪eʃ] (nghe), nghĩa là ”Đất nước Bengal”, phiên âm tiếng Việt: Băng-la-đét), tên chính thức: Cộng hoà Nhân dân Bangladesh (tiếng Bengal: গণপ্রজাতন্ত্রী বাংলাদেশ), là một quốc gia có chủ quyền nằm ở vùng Nam Á. Bangladesh giáp Ấn Độ ở phía tây, bắc, và đông nên gần như bị bao vây trừ một đoạn biên giới giáp với Myanmar ở phía cực đông nam và Vịnh Bengal ở phía nam. Cùng với tiểu bang Tây Bengal của Ấn Độ, quốc gia này là một thành phần của khu vực chung của dân tộc-ngôn ngữ Bengal. Địa danh Bangladesh có nghĩa “Đất nước Bengal” và được viết thành বাংলাদেশ và phát âm là [‘baŋlad̪eʃ] (trợ giúp·thông tin) trong tiếng Bengal chuẩn.

Biên giới của Bangladesh được xác lập theo sự Phân chia Ấn Độ năm 1947, khi nó trở thành nửa phía đông của Pakistan ( Đông Pakistan ), chia cách 1.600 km ( 1.000 dặm ) với nửa phía tây. Dù cùng có tôn giáo chính là Hồi giáo, sự ngăn cách về ngôn từ và dân tộc bản địa giữa phía đông và phía tây cộng với một chính phủ nước nhà hầu hết của Tây Pakistan, khiến nước này công bố độc lập dưới sự chỉ huy của Sheikh Mujibur Rahman năm 1971 sau một cuộc Chiến tranh giải phóng Bangladesh đẫm máu, với sự trợ giúp của Ấn Độ. Những năm sau độc lập là quá trình không ổn định chính trị của quốc gia, với mười ba chính phủ nước nhà và tối thiểu bốn cuộc hòn đảo chính quân sự chiến lược .

Dân số Bangladesh xếp hạng thứ bảy trên thế giới, nhưng với diện tích chỉ gần 144.000 km² nó đứng hàng thứ 94, biến nước này trở thành một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Đây là quốc gia có cộng đồng Hồi giáo lớn thứ ba thế giới, nhưng số tín đồ Hồi giáo vẫn hơi ít hơn so với số tín đồ Hồi giáo tại Ấn Độ (dù Hồi giáo chỉ là tôn giáo phụ tại Ấn Độ). Về mặt địa lý, nước này chủ yếu gồm Đồng bằng sông Hằng-Brahmaputra, nước này cũng có những trận lụt theo gió mùa hàng năm, và thường có lốc xoáy. Bangladesh là một thành viên sáng lập Hiệp hội Nam Á vì sự Hợp tác Khu vực (SAARC), BIMSTEC, và là một thành viên của Tổ chức Hội nghị Hồi giáo (OIC) và D-8.

Những tàn tích của nền văn minh tại vùng đại Bengal có niên đại từ 4.000 năm trước[5][6], khi vùng này là nơi sinh sống của người Dravida, Tạng-Miến và Nam Á. Nguồn gốc chính xác của từ Bangla hay Bengal hiện vẫn chưa được biết, dù mọi người tin rằng nó xuất phát từ bộ lạc Bang nói tiếng Dravida đã từng sống ở vùng này khoảng năm 1000 TCN[7]. Sau khi người Ấn-Arya tới đây, vương quốc Gangaridai được thành lập từ ít nhất thế kỷ thứ VII TCN, sau này vương quốc này thống nhất với Bihar thuộc Đế chế Magadha. Ở thời triều đại Maurya được Chandragupta Maurya thành lập, Đế chế Magadha trải dài hầu như một nửa tiểu lục địa Ấn Độ và nhiều phần của Ba Tư cũng như Afghanistan. Bengal sau này trở thành một phần của đế chế Gupta từ thế kỷ III tới thế kỷ VI. Sau khi đế chế này sụp đổ, một triều đại Bengal khá rực rỡ tên gọi Shashanka được thành lập nhưng không tồn tại lâu. Sau giai đoạn quân chủ, triều đại Pala Phật giáo cai trị vùng này trong hơn 400 năm, tiếp sau là một giai đoạn cầm quyền ngắn của triều đại Sena Hindu. Đạo Hồi bắt đầu du nhập vào Bengal ở thế kỷ XII nhờ các nhà truyền giáo Sufi và những cuộc chinh phục sau này của Hồi giáo giúp tôn giáo này phát triển ra toàn vùng[8]. Bakhtiyar Khalji, một vị tướng người Thổ Nhĩ Kỳ, đánh bại Lakshman Sen của triều đình Sena và chinh phục nhiều vùng rộng lớn tại Bengal. Vùng này nằm dưới sự cai trị của nhiều triều đại Hồi giáo và các vị lãnh chúa phong kiến trong 500 năm sau đó. Tới thế kỷ XVI, đế chế Mughal kiểm soát Bengal, và Dhaka trở thành một trung tâm tỉnh lỵ quan trọng của chính quyền Mughal.

Những thương nhân châu Âu tới đây từ cuối thế kỷ XV, và tác động ảnh hưởng của họ dần tăng lên tới khi Công ty Đông Ấn của Anh giành quyền trấn áp Bengal sau trận Plassey năm 1757 [ 9 ]. Cuộc nổi dậy đẫm máu năm 1857, được gọi là cuộc binh biến Sepoy, dẫn tới việc quyền lực tối cao được giao cho hoàng gia Anh, với một vị phó vương người Anh quản trị cỗ máy hành chính ( Baxter [ 9 ], trang 30 — 32 ). Trong thời thuộc địa, nạn đói nhiều lần xảy ra trên tiểu lục địa Ấn Độ, gồm cả nạn đói Bengal năm 1770 khiến 3 triệu người chết. [ 10 ] Trong tiến trình từ 1905 đến 1911, một nỗ lực phân loại tỉnh Bengal thành hai vùng, với Dhaka là thủ phủ vùng phía đông đã sớm thất bại ( Baxter [ 9 ], trang 39 — 40 ). Khi Ấn Độ bị san sẻ năm 1947, Bengal được chia theo vùng tôn giáo, với vùng phía tây thuộc Ấn Độ và vùng phía đông trở thành chủ quyền lãnh thổ Pakistan với tên gọi là tỉnh Đông Bengal ( sau này được đổi tên thành Đông Pakistan ), với thủ phủ tại Dhaka [ 11 ]. Năm 1950, cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành xong ở Đông Bengal với việc bãi bỏ mạng lưới hệ thống phong kiến Zamindar ( Baxter [ 9 ], trang 72 ). Tuy nhiên mặc kệ sức mạnh kinh tế tài chính và nhân khẩu của phía đông, cơ quan chính phủ Pakistan và quân đội vẫn bị thống trị bởi những tầng lớp thượng lưu phía tây. Phong trào ngôn từ Bengal năm 1952 là tín hiệu tiên phong về sự xích mích giữa hai vùng của Pakistan ( Baxter [ 9 ], trang 62 — 63 ). Sự bất mãn với cơ quan chính phủ TW về những yếu tố văn hóa truyền thống và kinh tế tài chính liên tục tăng lên trong thập kỷ tiếp theo, trong thời hạn ấy Liên đoàn Awami nổi lên trở thành lời nói chính trị của dân cư nói tiếng Bengal. Liên đoàn đã lôi kéo quyền tự trị trong thập niên 1960, và 1966, quản trị trào lưu Sheikh Mujibur Rahman bị tống giam ; ông được thả năm 1969 sau một vụ nổi dậy chưa từng thấy của dân cư .Năm 1970, bão Bhola [ 12 ] đã tàn phá vùng bờ biển Đông Pakistan, cơ quan chính phủ TW phản ứng chậm trễ. Sự tức giận của người dân Bengal càng ngày càng tăng khi Sheikh Mujibur Rahman cùng với Liên đoàn Awami của mình giành hầu hết tại Nghị viện trong cuộc bầu cử năm 1970, ( Baxter [ 9 ], trang 78 — 79 ) bị ngăn cản nhậm chức. Sau những cuộc đàm phán thất bại với Mujib, Tổng thống Yahya Khan đã bắt ông trong đêm ngày 25 tháng 3 năm 1971, và triển khai Chiến dịch Đèn pha [ 13 ], một cuộc tiến công nhằm mục đích duy trì quyền trấn áp quân sự chiến lược với phía Đông Pakistan. Những giải pháp của Yahya gây ngã xuống rất lớn, và đấm đá bạo lực của đại chiến dẫn tới cái chết của nhiều dân thường [ 14 ]. Các tiềm năng hầu hết là những tầng lớp tri thức và những người theo đạo Hindu, với khoảng chừng 10 triệu người tị nạn phải bỏ chạy sang vương quốc láng giềng là Ấn Độ ( LaPorte [ 15 ], trang 103 ). Những số lượng ước tính về số người bị thảm sát lên tới từ hàng trăm nghìn tới 3 triệu người [ 16 ] [ 17 ]. Đa số chỉ huy Liên đoàn Awami phải bỏ trốn và lập ra một cơ quan chính phủ hải ngoại tại Calcutta, Ấn Độ. Chiến tranh giải phóng Bangladesh lê dài 9 tháng. Du kích Mukti Bahini và quân chính quy Bengal nhận được sự tương hỗ từ phía Các lực lượng vũ trang Ấn Độ tháng 12 năm 1971. Dưới sự chỉ huy của Trung tướng J.S. Arora, quân đội Ấn Độ đã giành được thắng lợi quyết định hành động trước Pakistan ngày 16 tháng 12 năm 1971, bắt 90.000 tù binh [ 18 ] trong cuộc cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1971 .Sau khi giành được độc lập, Bangladesh trở thành một nhà nước dân chủ nghị viện, Mujib làm Thủ tướng. Trong cuộc bầu cử nghị viện năm 1973, Liên đoàn Awami giành được hầu hết tuyệt đối. Một nạn đói toàn nước diễn ra trong năm 1973 và 1974 [ 10 ] và đầu năm 1975, Mujib đưa ra ý tưởng sáng tạo một đảng xã hội chủ nghĩa cầm quyền với tổ chức triển khai BAKSAL mới được xây dựng của ông. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Mujib và mái ấm gia đình bị những sĩ quan tầm trung ám sát. [ 19 ] Một loạt những cuộc thay máu chính quyền và phản thay máu chính quyền đẫm máu diễn ra trong ba tháng tiếp theo, lên tới cực điểm khi tướng Ziaur Rahman, người tái lập chính sách chính trị đa đảng và đồng thời là người xây dựng đảng Quốc gia Bangladesh ( BNP ), lên nắm quyền. Thời kỳ cầm quyền của Zia kết thúc khi ông bị ám sát năm 1981 bởi những sĩ quan không quân trong quân đội [ 19 ]. Người cầm quyền hầu hết tiếp sau của Bangladesh là tướng Hossain Mohammad Ershad, người giành được quyền lực tối cao sau một cuộc thay máu chính quyền đẫm máu năm 1982 và tại vị đến năm 1990, khi ông bị gạt ra rìa sau một cuộc nổi dậy của dân chúng. Từ đó, Bangladesh chuyển thành một chính sách dân chủ nghị viện. Vợ góa của Zia, Khaleda Zia, chỉ huy BNP giành thắng lợi trong cuộc bầu cử năm 1991 và 2001 và trở thành Thủ tướng từ năm 1991 tới 1996 và một lần nữa từ năm 2001 tới hiện tại. Sheikh Hasina, một trong những người con gái còn sống của Mujib và là chỉ huy Liên đoàn Awami, nắm quyền từ năm 1996 đến 2001. Dù Bangladesh nằm dưới sự chỉ huy của hai nhà nữ chính trị khác nhau nhưng nước này vẫn ở thực trạng tham nhũng tràn ngập [ 20 ], hỗn loạn và đấm đá bạo lực chính trị .

nhà nước và chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Bangladesh là một nước dân chủ nghị viện. Tổng thống là nguyên thủ vương quốc, một chức vụ có tính nghi lễ. Quyền lực thực sự do thủ tướng, là chỉ huy chính phủ nước nhà nắm giữ. Tổng thống được cơ quan lập pháp bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm và thường thì có những quyền lực tối cao hạn chế chỉ được tăng quyền trong thời kỳ có chính phủ nước nhà lâm thời, đa số để trấn áp sự chuyển tiếp sang một chính phủ nước nhà mới. Bangladesh đã thiết lập một mạng lưới hệ thống chuyển giao quyền lực tối cao duy nhất ; vào thời gian hết nhiệm kỳ cơ quan chính phủ, quyền lực tối cao được trao lại cho những thành viên của một chính phủ nước nhà lâm thời trong 3 tháng, tổ chức triển khai này sẽ tổ chức triển khai tổng tuyển cử và chuyển giao lại quyền lực tối cao cho những đại diện thay mặt được bầu ra. Hệ thống này lần đầu được vận dụng năm 1991 và được đưa vào thành pháp luật trong hiến pháp năm 1996, là lần sửa đổi thứ 13 của hiến pháp [ 21 ] .

Thủ tướng theo nghi thức do tổng thống chỉ định và phải là một thành viên nghị viện (MP), được sự tin cậy của đa số thành viên. Chính phủ gồm các bộ trưởng do thủ tướng lựa chọn và do tổng thống chỉ định. Hệ thống một viện với 300 thành viên Quốc hội hay Jatiyo Sangshad, do dân bầu với chỉ một đại biểu cho mỗi khu bầu cử có nhiệm kỳ năm năm. Quyền bỏ phiếu phổ thông cho mọi công dân từ 18 tuổi.

Hiến pháp Bangladesh được soạn thảo năm 1972 và đã trải qua 13 lần sửa đổi [ 21 ]. Cơ quan tư pháp cao nhất là Tòa án tối cao, chánh án và những thẩm phán khác của Tòa án tối cao do Tổng thống chỉ định. Tư pháp không tách rời khỏi hành chính, gây ra nhiều rối loạn trong những năm gần đây. Luật pháp dựa lỏng lẻo theo thông luật Anh, nhưng những luật đạo mái ấm gia đình như hôn nhân gia đình và thừa kế dựa theo tôn giáo, và cho nên vì thế độc lạ tùy theo từng hội đồng tôn giáo .Hai đảng chính tại Bangladesh là Đảng Quốc gia Bangladesh ( BNP ) và Liên đoàn Awami Bangladesh. BNP có liên minh là những đảng Hồi giáo như Jamaat-e-Islami Bangladesh và Islami Oikya Jot, trong khi Liên đoàn Awami link cùng phe cánh tả và những đảng phi tôn giáo. Một nhóm khác đóng vai trò khá quan trọng là Đảng Jatiya, do cựu chỉ huy quân đội Ershad đứng đầu. Sự cạnh tranh đối đầu Liên đoàn Awami-BNP rất nóng bức và thường dẫn tới những cuộc phản kháng, đấm đá bạo lực và gây thiệt hại nhân mạng. Cánh chính trị sinh viên có vai trò rất lớn tại Bangladesh, di sản từ thời trào lưu giải phóng cuộc gia. Hầu như toàn bộ những đảng chính trị đều có cánh sinh viên hoạt động giải trí rất mạnh và nhiều sinh viên đã được bầu vào Nghị viện .Hai đảng Hồi giáo cực đoan, Jagrata Muslim Janata Bangladesh ( JMJB ) và Jama’atul Mujahideen Bangladesh ( JMB ), đã bị cấm hoạt động giải trí vào tháng 2 năm 2005. Từ một loạt những vụ đánh bom năm 1999 gây thiệt mạng hàng trăm người và gây nỗi sợ hãi trong toàn vương quốc, nhiều lời buộc tội đã nhắm tới những đảng đó và hàng trăm thành viên của họ đã bị cầm giữ trong những chiến dịch bảo mật an ninh, gồm cả chỉ huy hai đảng vào năm 2006. Trường hợp đánh bom tự sát tiên phong tại Bangladesh diễn ra tháng 11 năm 2005 .
Bangladesh được chia thành tám phân khu hành chính, [ 22 ] mỗi phân khu được đặt tên theo thủ phủ của nó : Barisal, Chittagong, Dhaka, Khulna, Mymensingh Rajshahi, Sylhet và Rangpur .

Các phân khu được chia tiếp thành huyện (zila). Có 66 huyện tại Bangladesh, mỗi huyện được chia tiếp thành các upazila (phó huyện) hoặc thana. Trong khu vực phạm vi của mỗi trạm cảnh sát, ngoại trừ ở các khu vực đô thị, được chia thành vài liên hiệp, mỗi liên hiệp gồm nhiều làng. Tại các khu vực đô thị, phạm vi của các đồn cảnh sát được chia thành phường, và được chia tiếp thành mahallas. Không có bầu cử các quan chức ở cấp phân khu hay cấp huyện, và chính quyền chỉ gồm các quan chức chính phủ. Các cuộc bầu cử trực tiếp được thực hiện ở cấp liên hiệp (hay phường), bầu ra chủ tịch và một số thành viên. Năm 1997, một đạo luật của quốc hội đã được thông qua để định ra ba ghế tối thiểu (trong tổng số 12) trong mỗi liên hiệp cho các ứng cử viên nữ.[23]

Dhaka là Hà Nội Thủ Đô và thành phố lớn nhất của Bangladesh. Các thành phố chính là : Dhaka, Chittagong, Khulna, Rajshahi, Sylhet, Barisal, Rangpur, Comilla và Gazipur. Các thành phố này có những cuộc bầu cử thị trưởng. Các thành phố chính khác gồm có Mymensingh, Gopalganj, Jessore, Bogra, Dinajpur, Saidapur, Narayanganj và Rangamati. Các thành phố này cùng những đô thị khác được phép triển khai bầu cử một quản trị. Các thị trưởng và quản trị được bầu theo nhiệm kì 5 năm .

Phân khu của Bangladesh
Phân khu Thủ phủ Thành lập Diện tích (km²)[24] Dân số [24] Mật độ[24]
Barisal Barisal 1 tháng 1 năm 1993 13.297 8.325.666 626
Chittagong Chittagong 1829 33.771 28.423.019 841
Dhaka Dhaka 1829 20.593 36.054.418 1.751
Khulna Khulna 1 tháng 10 năm 1960 22.272 15.687.759 704
Mymensingh Mymensingh 14 tháng 9 năm 2015 10.584 11.370.000 1.074
Rajshahi Rajshahi 1829 18.197 18.484,858 1.015
Rangpur Rangpur 25 tháng 1 năm 2010 16.317 15.787.758 960
Sylhet Sylhet 1 tháng 8 năm 1995 12.596 9.910.219 780

Địa lý và Khí hậu[sửa|sửa mã nguồn]

Ảnh vệ tinh thể hiện những đặc thù địa lý Bangladesh

Bangladesh nằm ở vùng thấp của đồng bằng sông Hằng-Brahmaputra hay Đồng bằng sông Hằng. Đồng bằng này được hình thành nhờ hợp lưu sông Hằng (tên địa phương Padma hay Pôdda), Sông Brahmaputra (Sông Jamuna jau Jomuna), và Sông Meghna tại các nhánh của chúng. Đất phù sa lắng đọng do các con sông trên mang lại đã tạo nên một trong những đồng bằng màu mỡ nhất thế giới.

Đa phần Bangladesh nằm thấp 10 mét dưới mực nước biển, và mọi người cho rằng 10 % đất đai sẽ bị ngập chìm nếu mực nước biển dâng thêm 1 mét [ 25 ]. Điểm cao nhất Bangladesh nằm tại dãy Mowdok ở độ cao 1.052 m ( 3.451 ft ) tại vùng đồi Chittagong phía đông nam quốc gia [ 26 ]. Một phần chính vùng duyên hải có những rừng nhiệt đới gió mùa nhiều đầm lầy. Sundarbans, một trong những khu rừng tràm đước lớn nhất quốc tế là nơi sinh sống của nhiều hệ động thực vật, gồm cả hổ Bengal. Năm 1997, vùng này được xếp vào list những khu vực đang nguy cấp [ 27 ] .Dọc theo Hạ chí tuyến, khí hậu Bangladesh là khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa đông thoải mái và dễ chịu từ tháng 10 tới tháng 3, mùa hè nóng ẩm từ tháng 3 tới tháng 6. Mùa gió mùa ấm và ẩm lê dài từ tháng 6 tới tháng 10 mang tới đa số lượng mưa của nước này. Các thảm họa vạn vật thiên nhiên, như lũ lụt, lốc nhiệt đới gió mùa, lốc xoáy, và lở đất do thủy triều xảy ra phần nhiều hàng năm cộng với những hậu quả của nạn phá rừng, thoái hóa đất và xói lở. Cox’s Bazar, phía nam thành phố Chittagong, có một bãi biển trải dài liên tục hơn 120 kilômét ( 75 dặm ) ; đây là một trong những bãi biển tự nhiên còn ở thực trạng hoang sơ dài nhất quốc tế .
Dhaka, TT kinh tế tài chính lớn nhất Bangladesh Ngư dân gần thị xã Cox’s Bazaar phía nam Bangladesh. Nhiều ngành công nghiệp Bangladesh vẫn còn sơ khai theo những tiêu chuẩn lúc bấy giờ . Người nông dân trên cánh đồng, một cảnh thường gặp mọi nơi ở BangladeshDù có những nỗ lực trong nước và quốc tế nhằm mục đích cải tổ triển vọng kinh tế tài chính và nhân khẩu, Bangladesh vẫn là một vương quốc dưới mức tăng trưởng và dân số quá đông đúc. Thu nhập trên đầu người năm năm nay ở mức thấp US $ 4,205, và nhiều chỉ số kinh tế tài chính khác còn kém cỏi hơn thế [ 28 ]. Tuy vậy, như Ngân hàng Thế giới ghi chú trong bản báo cáo giải trình ngắn tháng 7 năm 2005 của họ, nước này đã có bước tăng trưởng ấn tượng trong nghành tăng trưởng con người bằng cách tập trung chuyên sâu nâng cao trình độ học vấn, thực thi bình đẳng giới trong trường học và giảm tăng trưởng dân số. Tính đến năm năm nay, GDP của Bangladesh là 229.760 tỉ USD đứng thứ 46 quốc tế, đứng thứ 17 châu Á và đứng thứ 3 Nam Á ( sau Ấn Độ và Pakistan ) .Đay là một trong những động cơ kinh tế tài chính của quốc gia. Trong thời Chiến tranh quốc tế thứ hai và cuối thập niên 1940 mẫu sản phẩm đay của Bangladesh chiếm 80 % thị trường quốc tế [ 29 ] và thậm chí còn vào đầu thập niên 1970 vẫn chiếm 70 % lệch giá xuất khẩu. Tuy nhiên, những loại sản phẩm polypropylen khởi đầu thay thế sửa chữa những loại sản phẩm đay trên khắp quốc tế và ngành công nghiệp này khởi đầu giảm sút. Bangladesh cung ứng lượng mẫu sản phẩm gạo, chè và mù tạc đáng kế. Dù hai phần ba dân số Bangladesh là nông dân, hơn ba phần tư lượng xuất khẩu của họ có được từ công nghiệp dệt may [ 30 ], ngành này mở màn lôi cuốn những nhà đầu tư quốc tế trong thập niên 1980 nhờ giá nhân công rẻ và ngân sách quy đổi thấp. Năm 2002, ngành công nghiệp này xuất khẩu lượng loại sản phẩm trị giá 5 tỷ USD [ 31 ]. Hiện nay ngành này sử dụng hơn 3 triệu công nhân, 90 % là phụ nữ [ 32 ]. Một phần ngoại tệ khác thu được từ những khoản tiền gửi từ những người Bangladesh sống ở quốc tế .Các cản trở so với sự tăng trưởng gồm có những cơn lũ và lốc xoáy tiếp tục, những doanh nghiệp nhà nước không hiệu suất cao, quản trị yếu kém cơ sở vật chất bến cảng, sự tăng trưởng nhanh lực lượng lao động vượt quá mức cung việc làm, sử dụng không hiệu suất cao những nguồn nguồn năng lượng ( như khí tự nhiên ), nguồn cung nguồn năng lượng không đủ, chậm vận dụng cải cách kinh tế tài chính, tranh giành chính trị và tham nhũng. Theo bản báo cáo giải trình ngắn về những vương quốc của Ngân hàng quốc tế tháng 7 năm 2005 : ” Một trong những vật cản lớn nhất so với sự tăng trưởng của Bangladesh là quản trị kém và sự yếu kém trong những định chế công cộng ” [ 33 ] .Từ năm 1990, theo Ngân hàng Thế giới nước này đã đạt được mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 5 %, dù có những chướng ngại đó. Tầng lớp trung lưu và công nghiệp tiêu dùng đã có bước tăng trưởng tiên phong. Tháng 12 năm 2005, bốn năm sau bản báo cáo giải trình của họ về những nền kinh tế tài chính đang nổi lên ” BRIC ” ( Brasil, Nga, Ấn Độ, và Trung Quốc ), Goldman Sachs đã coi Bangladesh là một trong ” Mười một Quốc gia tiếp theo ” [ 34 ], cùng với Ai Cập, Indonesia và nhiều nước khác. Bangladesh đã đạt được mức tăng trưởng cao trong góp vốn đầu tư trực tiếp quốc tế. Một số tập đoàn lớn đa vương quốc, gồm cả Unocal Corporation và Tata, đã góp vốn đầu tư những khoản vốn lớn vào đây, nghành khí tự nhiên lôi cuốn nhiều nhà đầu tư nhất. Tháng 12 năm 2005, Ngân hàng Trung ương Bangladesh đề ra kế hoạch tăng trưởng GDP ở mức khoảng chừng 6,5 % [ 35 ] .

Một trong những yếu tố đóng góp nhiều vào sự tăng trưởng của nền kinh tế là sự truyền bá mở rộng chương trình tín dụng nhỏ của Muhammad Yunus thông qua Ngân hàng Grameen. Tới cuối thập niên 1990, Ngân hàng Grameen đã có 2,3 triệu thành viên cùng với 2,5 triệu thành viên của các tổ chức khác[36].

Để tăng cường tăng trưởng kinh tế tài chính, chính phủ nước nhà đã tạo ra nhiều khu công nghiệp để lôi cuốn góp vốn đầu tư quốc tế. Những khu công nghiệp này được quản lý và điều hành bởi Cơ quan Khu chế xuất Bangladesh .
Các cô gái người Bengal thuộc những tầng lớp thượng lưu .Ước tính dân số gần đây trong khoảng chừng từ 142 đến 147 triệu người, làm cho Bangladesh đứng trong nhóm 10 nước đông dân nhất quốc tế. Với số dân tương tự như như Nga nhưng có diện tích quy hoạnh chỉ 144.000 kilômét vuông, khiến nước này có tỷ lệ dân số rất lớn. Tăng trưởng dân số ở mức rất cao trong những thập niên 1960 và 1970 khiến dân số tăng từ 50 lên 90 triệu người. Việc tăng cường trấn áp sinh sản trong thập niên 1980 đã góp thêm phần giảm tỷ suất này. Dân số Bangladesh khá trẻ, với nhóm độ tuổi 0 – 25 chiếm 60 %, trong khi chỉ 3 % là từ 65 trở lên. Tuổi thọ ở mức 63 tuổi so với cả phụ nữ và phái mạnh [ 37 ] .Bangladesh là vương quốc như nhau về mặt sắc tộc, với người Bangladesh chiếm 98 % dân số. Phần còn lại đa phần là những người di trú gốc Bihar và những nhóm sắc tộc địa phương. Có 13 nhóm sắc tộc phân bổ trong vùng đồi Chittagong, đông dân nhất trong số này là người Chakma. Khu vực này là nguồn gốc của stress sắc tộc kể từ khởi đầu của nhà nước Bangladesh [ 38 ]. Các nhóm bộ tộc lớn nhất ngoài vùng đồi núi là người Santal và Garos ( Achiks ). Buôn bán người đã trở thành một yếu tố kinh niên tại Bangladesh [ 39 ] và việc nhập cư phạm pháp đang là nguyên do gây xích mích với Myanma [ 40 ] và Ấn Độ [ 41 ] .Ngôn ngữ chính, tại Tây Bengal, là tiếng Bengal, một ngôn từ Ấn-Arya có nguồn gốc tiếng Phạn và có bảng ký tự riêng. Bangla là ngôn từ chính thức của Bangladesh. Tiếng Anh được sử dụng như ngôn từ thứ hai trong những tầng lớp trung và thượng lưu và trong giáo dục cao học. Từ Nghị định Tổng thống năm 1987, Bangla được dùng trong mọi văn bản nhà nước trừ đối ngoại .Hai tôn giáo chính ở Bangladesh là Hồi giáo ( 88 % theo ước tính của Bộ Nội vụ Hoa Kỳ, 2005 ) và Hindu giáo ( 11 % theo ước tính của Bộ nội vụ Hoa Kỳ, 2005 ). Dân tộc Bihari hầu hết là người Hồi giáo Shia. Các nhóm tôn giáo khác gồm Phật giáo, Thiên chúa giáo và Thuyết duy linh .

Mức độ tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục gần đây đã được cải thiện khi mức nghèo khổ giảm bớt. Tuy nhiên, Bangladesh vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Đa số dân Bangladesh làm nông nghiệp, sống nhờ đồng ruộng. Gần một nửa số dân sống với chưa tới 1 USD mỗi ngày[42]. Có rất nhiều vấn đề sức khoẻ, từ ô nhiễm nước mặt tới nước ngầm nhiễm asen[43], và bệnh tật như sốt rét, trùng xoắn móc câu và sốt Dengue. Tỷ lệ biết chữ tại Bangladesh là khoảng 41%[44]. Theo ước tính năm 2004 của Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), có sự chênh lệch về mức độ biết đọc viết giữa hai giới, tỷ lệ này ở nam giới là 50% trong khi ở phụ nữ chỉ là 31%[45]. Tỷ lệ biết chữ đã tăng lên nhờ nhiều chương trình hành động quốc gia. Một trong những chương trình thành công nhất là Lương thực cho Giáo dục (FFE) được đưa ra năm 1993
[46], và một chương trình trả lương cho phụ nữ theo học mức tiểu học và trung học[47].

Tôn giáo tại Bangladesh (2011)[48]
Tôn giáo Tỷ lệ
Hồi giáo Sunni 90%
Ấn Độ giáo 9.5%
Phật giáo & Công giáo La Mã 0.5%

Hồi giáo là tôn giáo lớn nhất của Bangladesh, người Hồi giáo chiếm 89,5 % dân số, tiếp theo là Ấn Độ giáo, chiếm 9,6 %, ngoài những còn Phật giáo, Kitô giáo, những tôn giáo nhỏ khác và vô thần. [ 49 ]Người Hồi giáo chiếm gần 90 % dân số. [ 49 ] Hầu hết người Hồi giáo tại Bangladesh là người Hồi giáo Sunni, nhưng có một hội đồng người Hồi giáo Shia nhỏ và hội đồng nhỏ hơn là giáo phái Ahmadiyya. Hầu hết những người Shia sinh sống trong khu vực đô thị. Cộng đồng Hồi giáo trong khu vực Bengal tăng trưởng độc lập so với những khuynh hướng Hồi giáo thống trị ở Ấn Độ. Bangladesh cũng là vương quốc Hồi giáo duy nhất cam kết bảo tồn những yếu tố văn hóa truyền thống của Phật giáo và Ấn Độ giáo có từ thời tiền Hồi giáo .
Tuy là vương quốc Hồi giáo nhưng sau khi giành được độc lập từ Pakistan, chủ nghĩa thế tục đã được lao lý trong bản Hiến pháp của Bangladesh vào năm 1972 và là một trong bốn nguyên tắc chính của nhà nước Bangladesh, 3 nguyên tắc khác là dân chủ, dân tộc bản địa và chủ nghĩa xã hội. Năm 2010, Tòa án Tối cao Bangladesh ban lệnh duy trì những nguyên tắc thế tục của hiến pháp năm 1972. Tách đạo Hồi ra khỏi mạng lưới hệ thống chính trị của vương quốc. [ 50 ]Ấn Độ giáo là tôn giáo lớn thứ hai ở Bangladesh, gồm có khoảng chừng 10 Xác Suất dân số như tìm hiểu dân số năm 2001. [ 51 ] Về dân số, Bangladesh là nước có hội đồng Ấn giáo lớn thứ ba trên quốc tế, sau Ấn Độ và Nepal. Ấn giáo lúc bấy giờ có tác động ảnh hưởng lớn đến chính trị ở Bangladesh, tôn giáo này có 4 đại diện thay mặt trong QH Bangladesh .Có khoảng chừng 1 triệu người Bangladesh theo Phật giáo Theravada, tức chiếm khoảng chừng 0,7 % dân số. Trong thời cổ đại, khu vực của Bangladesh ngày này là một TT Phật giáo lớn ở châu Á, gồm có cả triết lý và kiến trúc. Kiến trúc Phật giáo ở Campuchia, Indonesia và Thailand, trong đó có đền Angkor Wat và Borobudur, được cho là đã được lấy cảm hứng từ những tu viện cổ xưa của Bangladesh như Somapura Mahavihara. Hầu hết những người theo Phật giáo ở Bangladesh sống ở khu vực miền Đông Nam nước này, đặc biệt quan trọng là trong vùng đồi Chittagong, và huyện Comilla .Kitô giáo đến Bangladesh trong thời hạn cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ thứ XVII, trải qua những thương nhân Bồ Đào Nha và những nhà truyền giáo. Kitô giáo chiếm 0,3 % dân số tức khoảng chừng 600.000 người, trong đó hội đồng Công giáo Rôma và Tin Lành là lớn nhất .
Pahela Baishakh, tiệc tùng mừng năm mới của Bangladesh .

Là một quốc gia mới nhưng bắt nguồn từ một dân tộc có lịch sử dài lâu, Bangladesh có một nền văn hóa bao gồm nhiều yếu tố cả mới và cũ. Ngôn ngữ Bangla có một di sản văn học rất phong phú, đây là di sản chung của Bangladesh với bang Tây Bengal Ấn Độ. Văn bản tiếng Bangla đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ thứ tám Charyapada. Văn học Bangla thời trung cổ thường mang tính tôn giáo (như Chandidas), hay phòng theo từ các ngôn ngữ khác (như Alaol). Văn học Bangla phát triển ở mức độ cao nhất vào thế kỷ mười chín. Các biểu tượng lớn nhất của nó là nhà thơ Rabindranath Tagore và Kazi Nazrul Islam. Bangladesh cũng có truyền thống văn học dân gian dài lâu, thể hiện qua Maimansingha Gitika, Thakurmar Jhuli hay các câu chuyện về Gopal Bhar.

Âm nhạc truyền thống Bangladesh có căn bản trữ tình (Baniprodhan), với số lượng nhạc cụ sử dụng tối thiểu. Truyền thống Baul là duy sản duy nhất của âm nhạc dân gian Bangla và có nhiều truyền thống âm nhạc khác tại Bangladesh, khác biệt tùy theo vùng. Gombhira, Bhatiali, Bhawaiya đều là các hình thức âm nhạc ít được biết tới hơn. Âm nhạc dân gian Bengal thường có sử dụng ektara, một nhạc cụ một dây. Các nhạc cụ khác gồm dotara, dhol, sáo và trống cặp nhỏ. Bangladesh cũng có một di sản Âm nhạc cổ điển Bắc Ấn nổi bật. Tương tự, các hình thức nhảy múa Bangladesh cũng bắt nguồn từ các truyền thống dân gian, đặc biệt là các truyền thống của các nhóm bộ tộc, cũng như ở tầm rộng hơn là truyền thống nhảy múa Ấn Độ. Bangladesh sản xuất khoảng 80 bộ phim mỗi năm[52]. Các bộ phim phim Hindi cũng khá phổ biến, cũng như các bộ phim từ Kolkata, vốn đều thuộc nền công nghiệp phim ảnh Bengal đang phát triển thịnh vượng. Khoảng 200 tờ báo hàng ngày xuất bản tại Bangladesh, cùng với hơn 1.800 tờ báo định kỳ. Tuy nhiên, tỷ lệ độc giả thường xuyên khá thấp, khoảng 15% dân số[53]. Người Bangladesh có thể theo dõi nhiều chương trình phát thanh trong nước và nước ngoài từ Bangladesh Betar, cũng như các chương trình tiếng Bangla của BBC và Tiếng nói Hoa Kỳ. Kênh truyền hình trước kia thuộc sở hữu nhà nước đã được tư nhân hóa trong những năm gần đây và đã có một số bước phát triển nhảy vọt.

Truyền thống ẩm thực Bangladesh có quan hệ chặt chẽ với ẩm thực Ấn Độ và ẩm thực Trung Đông cũng như có nhiều nét riêng biệt. Gạo và cá là các món ăn được ưa thích truyền thống; dẫn tới một câu nói rằng “cá và gạo tạo nên người Bengal” (machhe bhate bangali). Tiêu thụ thịt đã tăng lên trong những năm gần đây. Người Bangladesh chế tạo ra những sản phẩm bánh kẹo rất đặc trưng từ sữa; một số loại thường gặp là Rôshogolla, ChômchômKalojam.

Sari (shaŗi) là loại trang phục phổ biến nhất của phụ nữ Bangladesh. Tuy nhiên, salwar kameez (shaloar kamiz) cũng khá phổ thông, và tại những vùng thành thị một số phụ nữ mặc trang phục phương Tây. Đối với nam giới, trang phục phương Tây đã được chấp nhận rộng rãi. Nam giới cũng mặc theo kiểu kết hợp kurta-paejama, thường là vào các dịp lễ tôn giáo. Lungi, một kiểu váy dài, cũng được nhiều nam giới Bangladesh sử dụng.

Hai Eid, Eid ul-Fitr và Eid ul-Adha, là các lễ hội lớn nhất theo lịch Hồi giáo. Ngày hôm trước Eid ul-Fitr được gọi là Chãd Rat (đêm của Mặt trăng), và thường được chào mừng bằng những tràng pháo. Các ngày lễ Hồi giáo khác cũng được kỷ niệm. Các ngày lễ Hindu giáo là Durga Puja và Saraswati Puja. Buddha Purnima, chào mừng ngày sinh của Gautama Buddha, là một trong những ngày lễ quan trọng nhất của Phật giáo trong khi Giáng sinh, được gọi là Bôŗodin (ngày Vĩ đại) trong tiếng Bangla được cộng đồng thiểu số Thiên chúa giáo đón mừng. Ngày lễ không tôn giáo quan trọng nhất là Nôbobôrsho hay năm mới của Bengal, ngày khởi đầu của lịch Bengal. Các lễ hội khác gồm Nobanno, Poush parbon (ngày lễ của Poush) ngày lễ kỷ niệm Shohid Dibosh.

Cricket là một trong những môn thể thao nổi tiếng nhất Bangladesh. Năm 2000, Đội tuyển cricket Bangladesh được trao mức Test cricket và gia nhập vào liên đoàn những đội tuyển vương quốc hùng mạnh trong môn thể thao này được Hội đồng Cricket Quốc tế cho phép chơi những trận đấu thử nghiệm. Các môn thể thao khác gồm bóng đá, hockey trên cỏ, đánh tennis, bóng ném, bóng rổ, cờ và kabadi, một môn thể thao chơi theo đội 7 người, không có bóng cũng như bất kể một dụng cụ nào và là môn thể thao vương quốc của Bangladesh. Ủy ban Kiểm tra Thể thao Bangladesh quản trị 29 liên đoàn thể thao khác nhau .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *