Từ bi là gì?

Từ bi là gì?
Trong Phật giáo, tâm từ bi được nhìn nhận là tâm ý tối thượng, hành vi từ bi là hành vi thiện tích cực nhất trong mọi hành vi. Bản chất từ bi là vẽ đẹp, là niềm niềm hạnh phúc hùng vĩ nhất. Từ bi là suối nguồn tươi mát, là nền tảng cơ bản cho con đường tâm linh .>> Tư liệu điều tra và nghiên cứu

Hiểu từ bi theo Thắng Pháp Tập Yếu Luận:

Từ ( Mettà ) có gốc từ ngữ căn mida là làm cho dịu, yêu dấu. Chính là sự mong ước, khẩn nguyện cho hết thảy chúng sanh an lành. Mettà không phải là tình thương vật chất, cũng không phải là tình cảm riêng tư. Mettà bao trùm toàn thể chúng sanh không trừ một ai. Cùng tột của Mettà là sự thể nhập bản ngã với tổng thể chúng sanh ( Sabbatthtà ). “Từ” và “Bi” đều không câu hữu với “Xả” vì chúng lấy chúng sanh làm đối tượng, nên không khởi trong các siêu thế tâm vì siêu thế tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng.

“Từ” và “Bi” đều không câu hữu với “Xả” vì chúng lấy chúng sanh làm đối tượng, nên không khởi trong các siêu thế tâm vì siêu thế tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng.

Bài liên quan

Bạn đang đọc: Từ bi là gì?

Thanh kiếm từ bi và thanh kiếm sát nhânThực ra, tâm từ không có tâm riêng không liên quan gì đến nhau trong những loại tâm. Tâm từ này là một trong những phận sự biết đối tượng người dùng của tâm sở vô sân ( Adosacetasika ). Tâm sở vô sân thuộc loại tâm sở tịnh hảo ( sobhanacetasika ) đồng sanh với toàn bộ tịnh hảo tâm. Nếu nó đồng sanh với tịnh hảo tâm không biết đến đối tượng người dùng chúng sanh là đáng yêu, đáng mến, đáng kính thì tâm vô sở sân ấy không gọi là tâm từ. Nếu biết đối tượng người dùng chúng sanh đáng yêu, đáng mến, đáng kính thì tâm sở vô sân ấy gọi là tâm từ. Bi ( Karunà ), từ ngữ căn Kar ( làm ) + Unà là cái làm cho tâm sở người thiện thêm rung động trước sự đau khổ của chúng sanh ; cái làm tiêu tan sự đau khổ của chúng sanh. Đặc tính của karunà là thương xót trước sự đau khổ của người khác, cầu mong diệt trừ sự đau khổ của người khác. Cả từ và bi đều đi chung với chữ Citta : Tâm, sự hiểu biết. Đối tượng của tâm “ Từ ” là chúng sanh đáng yêu, đáng mến, đáng kính ( piyamanapasattapannatti ) ; Còn đối tượng người dùng của tâm “ Bi ” là chúng sanh đang bị đau khổ ( dukkhitasattapanntti ). Nếu xét theo tâm lí riêng, thì tâm “ Từ ” và tâm “ Bi ” không khi nào đi đôi, không đồng sanh với nhau, chính bới chúng có đối tượng người tiêu dùng chúng sanh khác nhau. Cho nên khi nào có tâm “ Từ ” thì không có tâm “ Bi ” ; ngược lại khi nào có tâm “ Bi ” thì không có tâm ‘ Từ ”. Nhưng nếu xét theo tâm lí chung thì “ Từ ” và “ Bi ” đều không câu hữu với “ Xả ” vì chúng lấy chúng sanh làm đối tượng người dùng, nên không khởi trong những siêu thế tâm vì siêu thế tâm lấy Niết Bàn làm đối tượng người dùng. Từ bi là thuần của Phật giáo và được ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp vào tâm trí nhân gian. Nó là niềm tin, là một điều gì đó hiền lành, thân thiện.

Từ bi là thuần của Phật giáo và được ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp vào tâm trí nhân gian. Nó là niềm tin, là một điều gì đó hiền lành, thân thiện.

Hiểu từ bi theo Thanh Tịnh Đạo Luận:

Có thể nghiên cứu và phân tích tóm lược từ bi theo Thanh tịnh Đạo Luận như sau : Về ý nghĩa : từ có nghĩa là hòa tan, hóa giải những uẩn kết ; bi là tiêu hủy những nỗi khổ của người khác. Về đặc tính : từ đem lại sự an nhàn, làm cho ác tâm lắng dịu ; bi có đặc tính làm giảm bớt đau khổ và triệt tiêu sự tàn ác. Về mục tiêu : từ diệt tâm sân ; bi ngăn tâm ác.

Về chướng ngại: tham là chướng ngại gần của từ, sân là chướng ngại xa của từ; liên hệ với gia đình là chướng ngại gần của bi, tàn bạo là chướng ngại xa của bi.

Về số lượng giới hạn : từ là cơ sở cho sự giải thoát nhờ tịnh hướng ; bi là điểm tựa cơ bản cho không vô biên xứ.

Từ bi theo Kinh Đại Bảo Tích:

Chúng sanh duyên từ : Từ bi là lòng thương tổng thể chúng sanh theo lẽ thường. Pháp duyên từ : Là hiệu quả của việc chứng ngộ được tính vô ngã pháp, là quả vị của tổng thể những vị Thanh văn, Duên giác và Bồ Tát bước vào địa vị thứ nhất của thập địa. Vô duyên từ : Là tấm lòng thương mến vô phân biệt, vô điều kiện kèm theo của một vị Phật.

Hiểu theo lối chiết tự chữ Hán:

Chữ từ ( 慈 ), trên là chữ tư ( 玆 ) nói theo văn bạch thoại là chữ như thị ( 如是 ), nghĩa là như vậy ; dưới là chữ tâm ( 心 ). Từ là tâm như vậy. Tâm như vậy là khi thấy niềm vui hay nỗi khổ của người khác, đều có sự cảm nhận tương tự như vậy. Khi thấy người khác vui thì cầu mong cho mọi người có niềm vui. Khi người khác khổ thì mong ước cho họ chấm hết sự khổ. “Từ”, “Bi” vừa là một loại tâm vừa là một loại nhận thức để hành động, vừa là một biểu tượng đẹp đẽ. Cho nên nó vừa là pháp tu tập cho bản thân để thăng hoa tâm linh vừa là pháp hành động để lợi ích cho tha nhân, và cũng vừa là lẽ sống cao đẹp, hạnh phúc cho mọi người.

“Từ”, “Bi” vừa là một loại tâm vừa là một loại nhận thức để hành động, vừa là một biểu tượng đẹp đẽ. Cho nên nó vừa là pháp tu tập cho bản thân để thăng hoa tâm linh vừa là pháp hành động để lợi ích cho tha nhân, và cũng vừa là lẽ sống cao đẹp, hạnh phúc cho mọi người.

Bài liên quan

Từ bi là cội nguồn, là trái tim của Phật giáoChữ Bi ( 悲 ), trên là chữ phi ( 非 ), là không phải ; dưới là chữ tâm ( 心 ). Bi là chữ phi tâm ( 非心 ). Phi tâm là không ngừng cải cách, chuyển hóa cái tâm phân biệt, ích kỉ của ta. Khiến cái tâm đó tiếp cận với “ cái tâm như vậy ”, tâm có năng lực cảm nhận niềm vui sướng cũng như nỗi khổ đau của người khác. Khi ấy tất cả chúng ta mới có được lòng từ bi đích thực. Nếu như không đổi khác được, hoặc không tìm ra được “ cái tâm như vậy ” thì lòng từ bi của tất cả chúng ta sẽ không được chân thực. “ Cái tâm như vậy ” chính là chân tâm, là Phật tánh, là bản thể thanh tịnh của chúng sanh.

Hiểu từ bi theo nhân gian:

Trong nhân gian chữ từ bi được hiểu là lòng thiện, lòng thương người, thương vật, không có tính vị kỷ và nhất là hay trợ giúp người khác lúc khó khăn vất vả. Khi những thực trạng cùng khổ xảy ra thì người ta mong ước có vị Bụt với tấm lòng từ bi hiện ra. Cửa chùa được người đời gọi là “ cửa từ bi ”, bóng hình của một vị sư được gọi là “ bóng từ bi ”, lòng hiền lành hay trợ giúp người khác gọi là lòng từ bi, thậm chí còn đôi mắt từ bi, đôi môi từ bi. Nói chung những gì có tính năng giúp sức hoặc đem niềm vui đến cho người khác đều được gọi là từ bi. Như vậy chữ từ bi là thuần của Phật giáo và được ảnh hưởng tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tâm lý nhân gian. Nó là niềm tin, là một điều gì đó hiền lành, thân thiện.

Như vậy “Từ”, “Bi” vừa là một loại tâm vừa là một loại nhận thức để hành động, vừa là một biểu tượng đẹp đẽ. Cho nên nó vừa là pháp tu tập cho bản thân để thăng hoa tâm linh vừa là pháp hành động để lợi ích cho tha nhân, và cũng vừa là lẽ sống cao đẹp, hạnh phúc cho mọi người.

Từ bi là cho không nhận, không bị cưỡng bách phải cho, không vì tự ngã, danh tiếng mà cho…

Từ bi là cho không nhận, không bị cưỡng bách phải cho, không vì tự ngã, danh tiếng mà cho…

Bài liên quan

Tâm từ bi là cội nguồn của hạnh phúcNhận thấy sự hổ tương mật thiết có tính lợi tha của “ Từ ” và “ Bi ” nên Phật giáo Đại thừa đã nêu cao giá trị của chúng thành ý thức “ từ bi ” chung trong công cuộc cứu nhân độ thế. Cho nên từ bi thường được hiểu trong niềm tin : “ Từ năng dữ lạc, bi viết độ sanh ; từ bi nhị tự diệt thiên khiên ” ; hay “ từ năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc, bi năng bạt nhất thiết chúng sanh chi khổ ”. Nghĩa là đặc tính của từ bi thì rất dịu mát, nhân hậu, hay mang sự an ổn đến cho chúng sanh. Bởi vì nó có tính tích cực trong việc san sẻ khổ đau với chúng sanh ; mong tổng thể được sống an lành và niềm hạnh phúc. Từ bi là cho không nhận, không bị cưỡng bách phải cho, không vì tự ngã, nổi tiếng mà cho … Trong Phật giáo, tâm từ bi được nhìn nhận là tâm ý tối thượng, hành vi từ bi là hành vi thiện tích cực nhất trong mọi hành vi. Bản chất từ bi là vẽ đẹp, là niềm niềm hạnh phúc hùng vĩ nhất. Từ bi là suối nguồn tươi mát, là nền tảng cơ bản cho con đường tâm linh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *