Bệnh ghẻ – Bệnh viện da liễu trung ương
1. Đại cương về bệnh ghẻ
Bệnh ghẻ là một bệnh da khá phổ biến ở nước ta. Bệnh thường xuất hiện ở những vùng dân cư đông đúc, nhà ở chật hẹp, thiếu vệ sinh, thiếu nước sinh hoạt. Bệnh lây từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc trực tiếp hoặc qua quần áo, chăn chiếu dính trứng ghẻ hoặc cái ghẻ. Bệnh ghẻ tuy không gây hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, nhưng nếu không được điều trị chu đáo, bệnh sẽ gây ra các biến chứng như: nhiễm trùng, chàm hóa, viêm cầu thận cấp.
2. Dịch tễ bệnh ghẻ
Bệnh ghẻ là một bệnh nhiễm KST ở da, gây nên bởi sự xâm nhập của một loài ký sinh bắt buộc ở lớp thượng bì có tên khoa học là Sarcoptes scabiei, xác định lần đầu vào những năm 1600 nhưng không được xem là nguyên nhân gây bệnh ở da cho tới những năm 1700. Ước tính, có khoảng 300 triệu người trên toàn thế giới bị nhiễm KST ghẻ. Tác giả Fuller năm 2013 cho rằng tỷ lệ mắc bệnh ghẻ rất khác nhau, giao động từ 2,71/1000 tới 46% và vẫn là một gánh nặng bệnh tật lớn, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Ghẻ ảnh hưởng tới mọi tầng lớp xã hội, trong đó trẻ em và phụ nữ dễ bị cảm nhiễm hơn. Bệnh có xu hướng lưu hành nhiều hơn ở vùng thành thị, đặc biệt là các vùng đông đúc dân cư, điều kiện vệ sinh kém, bệnh vào mùa đông nhiều hơn mùa hè. Tỷ lệ mắc bệnh ghẻ đã tăng lên trong hai thập kỷ qua. Ở các nước phát triển, bệnh ghẻ vẫn là một trong những bệnh da liễu phổ biến, ảnh hưởng nhiều tới chất lượng cuộc sống, chi phí điều trị cao. Sự lan truyền ký sinh trùng chủ yếu do tiếp xúc gần gũi với người mang mầm bệnh hoặc qua trung gian là các vật dụng dính trứng ghẻ, cái ghẻ.
3. Bệnh nguyên và bệnh sinh
Cái ghẻ có bốn đôi chân, kích thước khoảng 0,3 mm, rất nhỏ nên khó có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Chúng không thể bay hay nhảy được, chu kỳ sống khoảng 30 ngày, ở trong và trên thượng bì. Ghẻ cái đào luống ở lớp sừng trong vòng 20 phút và đẻ khoảng 3 trứng mỗi ngày. Sau 4 ngày thì trứng nở, cái ghẻ non di chuyển lên bề mặt da và trưởng thành ở đó. Sau hai tuần, ghẻ cái và ghẻ đực giao cấu với nhau, sau đó, ghẻ cái đào luống trong lớp sừng còn ghẻ đực-vốn có kích thước nhỏ hơn ghẻ cái-bị chết. Số lượng trung bình cái ghẻ trên vật chủ thường nhỏ hơn 20, trừ trường hợp ghẻ vảy có thể có tới hàng triệu cái ghẻ. Những người bị suy giảm miễn dịch do nhiễm HIV hoặc ở người già, ở bệnh nhân sử dụng thuốc ức chế miễn dịch có nguy cơ cao bị ghẻ vảy, mặc dầu vậy, đã có trường hợp người Úc bản xứ khỏe mạnh mắc ghẻ vảy.
4. Đặc điểm lâm sàng bệnh ghẻ
Khi tiếp xúc lần đầu với cái ghẻ, triệu chứng ngứa và rát xuất hiện sau 6-8 tuần, khi đã tiếp xúc trước đó với cái ghẻ, các triệu chứng xuất hiện sớm hơn, trong vòng vài ngày do có sự mẫn cảm trước đó với cái ghẻ. Bệnh nhân ngứa rất dữ dội và tăng lên vào ban đêm. Thương tổn đỏ, bong vảy da, thỉnh thoảng có các nốt và sẩn đóng vảy, thường gặp ở các nếp kẽ, bờ bên các ngón tay, nấp gấp cổ tay, lòng bàn tay, lòng bàn chân, khuỷu tay, nách, bìu, dương vật, môi lớn, quầng vú ở nữ. Đỏ da rải rác ở thân mình thể hiện một phản ứng tăng nhạy cảm với kháng nguyên của KST ghẻ. Đặc trưng của bệnh là các luống ghẻ có cấu trúc dạng sợi chỉ, mảnh, thẳng, dài 1-10 mm, hình thành do sự di chuyển của cái ghẻ trong lớp sừng. Các vị trí nhìn thấy luống ghẻ rõ nhất là các nếp gấp, cổ tay, khuỷu. Tuy nhiên khó có thể nhìn thấy chúng ở giai đoạn sớm của bệnh hoặc khi da bị trầy xước.
Ở trẻ em dưới 2 tuổi, da mặt và da đầu có thể bị bệnh, trong khi đó ở người lớn thì rất hiếm. Các sẩn cục ngứa, màu đỏ tới tím thường gặp ở vùng nách và thân mình (trẻ em), vùng bìu (người lớn), nguyên nhân cũng là do phản ứng quá mẫn đối với kháng nguyên của KST ghẻ. Các sẩn cục này vẫn tồn tại trong nhiều tuần sau khi cái ghẻ đã bị loại trừ. Mụn nước và bọng nước có thể xuất hiện, đặc biệt là ở lòng bàn tay, lòng bàn chân.
Như vậy, các thương tổn cơ bản trong bệnh ghẻ thường là:
– Mụn nước sắp xếp rải rác, riêng rẽ ở vùng da mỏng như kẽ ngón tay, đường chỉ lòng bàn tay, mặt trước cổ tay, cẳng tay, nếp vú, quanh thắt lưng, rốn, kẽ mông, mặt trong đùi và bộ phận sinh dục. Ở trẻ sơ sinh mụn nước có thể xuất hiện ở lòng bàn chân. Ở quy đầu, ghẻ có thể gây ra vết trợt được gọi là săng ghẻ, dễ nhầm với săng giang mai.
– Sẩn cục hay sẩn huyết thanh: hay gặp ở nách, bẹn, bìu.
– Đường hầm ghẻ hay còn gọi là luống ghẻ, rất đặc hiệu, nhưng không phải lúc nào cũng dễ tìm thấy. Luống ghẻ do ghẻ cái tạo thành dài, 3-5mm, bên trên mặt da là một mụn nước nhỏ, lấy kim chích dịch chay ra, để lộ màu xám hoặc đen, dùng kim khêu sẽ bắt được cái ghẻ bám trên đầu kim. Đường hầm thường tìm thấy ở kẽ ngón tay, đường chỉ lòng bàn tay, nếp gấp cổ tay và quy đầu.
– Trên da có thể có những vết xước, vảy da, đỏ da, dát thâm. Có thể có bội nhiễm, chàm hóa, mụn mủ.
– Triệu chứng cơ năng: người bệnh ngứa, khó chịu, nhất là về đêm vì cái ghẻ đào hầm vào ban đêm.
Trong ghẻ vảy, các mảng dày sừng lan tỏa ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, kèm theo là sự dày lên và loạn dưỡng của các móng, khô các vùng da còn lại. Triệu chứng ngứa rất đa dạng và thậm chí là không ngứa. Có tới hàng triệu cái ghẻ ký sinh trên da và đây là nguồn lây bệnh lớn.
5. Chẩn đoán bệnh ghẻ
Chẩn đoán bệnh ghẻ dựa vào tiêu chuẩn vàng là tìm thấy cái ghẻ. Các phương pháp tìm cái ghẻ thường được áp dụng trong thực hành lâm sàng là soi tìm dưới kính hiển vi, có thể thấy cái ghẻ, trứng ghẻ, chất cặn thải của cái ghẻ. Phương pháp khác mang tính chất in vivo là sử dụng dermoscopy. Ngoài ra, có thể sử dụng phản ứng khuếch đại chuỗi polymerase trong đó DNA của KST ghẻ được tìm ra từ vảy da. Tuy nhiên, không phải lúc nào xét nghiệm cũng tìm thấy cái ghẻ và các sẩn phẩm của chúng. Vì vậy, chẩn đoán dựa vào các đặc điểm lâm sàng và tính chất dịch tễ là rất quan trọng.
6. Điều trị bệnh ghẻ
Có nhiều phương pháp điều trị bệnh ghẻ với các mức độ hiệu quả khác nhau. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc lựa chọn điều trị là độ tuổi, giá cả, mức độ nặng của bệnh và tính hiệu quả của các phương pháp điều trị trước đó.
6.1. Nguyên tắc điều trị
– Điều trị cho cả những người trong gia đình, tập thể, vườn trẻ… nếu phát hiện bị bệnh ghẻ.
– Bôi thuốc phải đúng cách.
– Giặt sạch, phôi khô quần áo, chăn chiếu, các đồ dùng khác.
6.2. Các thuốc điều trị
Ở người lớn, các thuốc diệt ghẻ tại chỗ nên sử dụng khắp bề mặt da, trừ vùng mặt và da đầu, và đặc biệt chú ý tới các vùng nếp kẽ, vùng sinh dục, quanh móng, sau tai. Ở trẻ em và những bệnh nhân ghẻ vảy, cần điều trị cả vùng mặt và da đầu. Bệnh nhân cần được tư vấn rằng, thậm chí khi đã điều trị đầy đủ, các dát và ngứa có thể kéo dài sau đó 4 tuần. Ngoài ra có thể sử dụng corticoid tại chỗ, kháng histamin và, nếu cần thiết là corticoid hệ thống để giảm ngứa và dát đỏ khi bệnh nhân đã sử dụng thuốc diệt ghẻ.
Bảng 1.1. Tóm tắt các phương pháp điều trị ghẻ
Bạn đang đọc: Bệnh ghẻ – Bệnh viện da liễu trung ương
Thuốc |
Liều |
Lưu ý |
Kem permethrin 5 % | Bôi và lưu lại trên da 8-14 giờ, co thể nhắc lại sau 7 ngày . | Lựa chọn điều trị tiên phong ở Hoa Kỳ . |
Lindan 1 % ( lotion ) | Bôi và lưu lại trên da 8 giờ rồi tắm. Có thể nhắc lại sau 1 tuần . |
Không khuyến cáo cho trẻ em dưới 2 tuổi, phụ nữ có thai và cho con bú. |
Kem crotamiton 10 % | Dùng trong 2 ngày liên tục, nhắc lại 1 lần trong vòng 5 ngày . | Có hiệu suất cao chống ngứa . |
Sulfur 5-10% dạng sương |
Sử dụng trong 3 ngày, sau đó tắm . | An toàn cho trẻ nhỏ dưới 2 tháng, phụ nữ có thai và cho con bú, nhưng dẫn chứng hiệu suất cao chưa cao . |
Benzyl benzoat 10 % ( lotion ) | Bôi và lưu lại trên da 24 giờ, sau đó tắm . | |
Ivermectin, 200 µg / kg |
Dùng liều duy nhất, có thể nhắc lại sau 10-14 ngày. |
Hiệu quả cao và bảo đảm an toàn . |
Cho tới nay, ivermectin là thuốc uống duy nhất để điều trị bệnh ghẻ, có hiệu quả cao. Thuốc được tìm thấy lần đầu trong những năm 1970 trên môi trường nuôi cấy của một loài nấm actinomycete là Streptomyces avermitilis. Ivermectin có cấu trúc tương tự như kháng sinh nhóm macrolid nhưng không có hoạt tính kháng khuẩn. Cơ chế diệt ghẻ của thuốc là do ivermectin có ái lực cao với các ion chlorid ở hệ thần kinh ngoại vi của động vật không xương sống, chẹn các kênh dẫn truyền qua synap thần kinh. Kết quả làm cho KST tê liệt và chết. Đã có nhiều nghiên cứu về tính hiệu quả của ivermectin trong điều trị ghẻ. Một nghiên cứu cho thấy sử dụng liều đơn ivermectin có tỷ lệ khỏi bệnh là 70%; liều nhắc lại sau 2 tuần cho tỷ lệ khỏi tăng lên tới 95%.
Ở Việt Nam, các thuốc điều trị ghẻ chủ yếu vẫn là dung dịch DEP, kem crotamiton, thuốc xịt Spregal (có thành phần là esdepaletrin và piperonyl butoxid). Ngoài ra, kháng histamin tại chỗ hoặc toàn thân, corticoid tại chỗ được dùng để chống ngứa, giảm các triệu chứng do cơ thể nhạy cảm với kháng nguyên của KST ghẻ như mụn nước, chàm hóa…Các phương pháp dân gian điều trị ghẻ như lá cây ba chạc đen tắm hoặc dầu hạt máu chó. Ngoài thuốc điều trị, vấn đề vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường, cách ly, điều trị cho những người sống gần bị bệnh đóng vai trò quan trọng, quyết định kết quả điều trị bệnh ghẻ.
6.3. Phòng bệnh
– Vệ sinh cá nhân hằng ngày sạch sẽ.
– Khi phát hiện ra có người trong gia đình bị ghẻ cần điều trị sớm, tránh tiếp xúc và dùng chung các đồ dùng của người bị bệnh.
Một số hình ảnh bệnh ghẻ
Ảnh 1, 2. Thương tổn mụn nước, mụn mủ của bệnh ghẻ ở lòng bàn tay, bàn chân em bé
Ảnh 3, 4. Hình ảnh luống ghẻ ở kẽ ngón tay của một em bé.
Ảnh 5. Nốt sẩn sau ghẻ ở vùng sinh dục, đặc hiệu cho bệnh ghẻ ở nam giới.
Ảnh 6, 7, 8. Ghẻ vảy ở bệnh nhân nữ có tiền sử bệnh lupus ban đỏ hệ thống, điều trị bằng corticoid toàn thân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fuller LC (2013), “Epidemiology of scabies”, Curr Opin Infect Dis, 26(2): 123-6.
2. Hersch C (1967), “Acute glomerulonephritis due to skin disease, with special reference to scabies”, S Afr Med J, 41:29.
3. Usha V, Gopalakrishnan Nair TV (2000), “A comparative study of oral ivermectin and topical permethrin cream in the treatment of scabies”, J Am Acad Dermatol, 42:236.
4. Trường Đại học Y Hà Nội (2008), Bệnh ghẻ, Da liễu học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 102-105.
5. Orkin M, Maibach HI (1991), “Ectoparasitic diseases”, Dermatology, p.205.
6. Orkin M (1995), “What’s new?” Curr Probl Dermatol, 22:105.
7. Down AM (2004), “Seasonal variation in scabies”, Br J Dermatol, 150:602.
8. Bitar D, Thiolet JM, Castor C, et al (2012), Increasing incidence of scabies in France, 1999-2010, and public health implications, Ann Dermatol Venereol, 139(6-7):428-34.
9. Whitehall J, Kuzulugil D, Sheldrick K, et al (2013), Burden of paediatric pyoderma and scabies in North West Queensland, J Paediatr Child Health, 49(2):141-3.
10. Arlian LG et al (1984), “Survival and infectivity of Sarcoptes scabiei var. canis and var. hominis”, J Am Acad Dermatol, 11:210.
11. Huynh TH, Norman RA (2004), “Scabies and pediculosis”, Dermatol Clin, 22:7.
12. Walton SF et al (1999), “Crusted scabies: A molecular analysis of Sarcoptes scabiei var. canis and var. hominis populations from patients with repeated infestations”, Clin Infect Dis, 29:1226.
13. Chosidow O (2000), “Scabies and pediculosis”, Lancet, 355:819.
13. Stephen PS, Jonathan NG, Rocky EB (2010), “Scabies, other mites, and pediculosis”, Fitzpatrick’s dermatology in general medicine, pp. 2031-2032.
14. Stephen PS, Jonathan NG, Rocky EB (2010), “Scabies, other mites, and pediculosis”, Fitzpatrick’s dermatology in general medicine, pp. 2031-2032.
15. Prins C (2004), “Dermoscopy for the in vivo detection of Sarcoptes scabiei”, Dermatology, 208:241.
16. Bezold G (2001), “Hidden scabies: Diagnosis by polymerase chain reaction”, Br J Dermatol, 144:614.
17. Santoro AF, Rezac MA, Lee JB (2003), “Current trend in ivermectin usage for scabies”, J Drugs Dermatol, 2:397.
Bài và ảnh: BS. Trần Thị Huyền, Khoa điều trị Bệnh da phụ nữ và trẻ em-Bệnh viện Da liễu Trung ương, Bộ môn Da liễu-Đại học Y Hà Nội.
Đăng bài: Phòng CNTT&GDYT
Source: https://trangdahieuqua.com
Category: Làm trắng da