vết thương – Chấn thương; Ngộ độc – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

vết thương – Chấn thương; Ngộ độc – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia

Thuốc mỡ kháng sinh dùng hàng ngày giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng và duy trì độ ẩm của vết thương để thúc đẩy nhanh liền vết thương. Tuy nhiên, thuốc mỡ không sử dụng trên chất kết dính mô hoặc băng dính.

Nếu xét thấy thiết yếu, kháng sinh dùng càng sớm càng tốt ; vết thương hoàn toàn có thể liền thì đầu .

Vết thương không được bất động vì di chuyển quá mức vùng bị ảnh hưởng có thể gây trở ngại liền vết thương. VT gần khớp cần được cố định bằng nẹp. Bột thạch cao được sử dụng để bất động ngón tay và bàn tay, Kê cao vết thương trên mức tim khi có thể trong 48 giờ đầu sau khi khâu. Dùng nẹp có thể duy trì độ cao của vết thương ở chi trên. Bệnh nhân có vết thương chi dưới (trừ lứa tuổi vị thành niên) không nên đi tỳ đè trong vài ngày (ví dụ bằng cách sử dụng nạng); hạn chế đi lại có thể dẫn đến lành vết thương nhanh hơn.

Chăm sóc vết thương tỉ mỉ. Vết thương được giữ sạch và khô; băng vết thương không dính, không thấm nước vi khuẩn thường được áp dụng. Thuốc mỡ kháng sinh được sử dụng hàng ngày cho đến khi cắt chỉ vết thương. Một bệnh nhân đáng tin cậy có thể kiểm tra vết nhỏ thương, sạch, nhưng khám bác sĩ sớm là tốt hơn cho vết thương có nguy cơ cao và vết thương ở bệnh nhân không đáng tin cậy. Sau 12 giờ, vết thương được làm sạch nhẹ nhàng các chất tiết với nước, oxi già, hoặc xà bông và nước. Làm ướt khi tắm trong thời gian ngắn là an toàn, nhưng nên tránh ngâm lâu.

Vết thương nhiễm trùng xảy ra 2 – 5% vết thương; đau tăng dần ≥ 12 giờ sau khi khâu là biểu hiện sớm nhất, các dấu hiệu ban đầu có màu đỏ nhiều hơn 0,5 cm từ mép vết thương, sưng tấy, đau và nóng. Các dấu hiệu sau đó có thể sốt, chảy dịch và viêm mạch bạch huyết Viêm mạch bạch huyết Viêm mạch bạch huyết là nhiễm khuẩn cấp tính (thường là streptococcal) của các kênh hạch bạch huyết ngoại vi. (Xem thêm Tổng quan về nhiễm trùng da do vi khuẩn và Viêm hạch bạch huyết.) Nguyên… đọc thêm Viêm mạch bạch huyết . Kháng sinh toàn thân chống lại vi khuẩn phát triển; Thông thường, cephalosporin thế hệ 1 (ví dụ, cephalexin 500 mg po qid) hoặc, đối với nhiễm khuẩn đường miệng, dùng penicillin 500 mg po qid. Nhiễm trùng bắt đầu > 5 – 7 ngày sau khi bị thương chứng tỏ còn dị vật tại vết thương.

Vật liệu khâu (trừ keo dính mô) cắt bỏ sau từng phần khác nhau tùy thuộc vào vị trí. Đối với vết rách trên khuôn mặt, cắt chỉ sau 3 đến 5 ngày để tránh dấu hiệu xâm nhập chéo và nhìn thấy được; một số bác sĩ lâm sàng áp dụng các dải dính để tăng cường vết thương trong vài ngày nữa. Khâu và ghim vết thương chi trên lấy ra sau 7-10 ngày. Khâu và ghim vết thương tay, ngón tay, mặt duỗi khuỷu tay, khớp gối hoặc bất kỳ nơi khác duy trì trong 10 tới 12 ngày.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *