Davor Šuker – Wikipedia tiếng Việt

Davor Šuker – Wikipedia tiếng Việt

Davor Šuker, (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1968) là cựu tiền đạo bóng đá người Croatia, được coi là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất thập niên 1990. Ông hiện tại là chủ tịch Liên đoàn bóng đá Croatia.

Đỉnh cao sự nghiệp của ông là World Cup 1998 tại Pháp, ông giành được danh hiệu Vua phá lưới với 6 bàn trong 7 trận, giúp đội tuyển Croatia giành hạng 3 chung cuộc ngay lần tham dự World Cup đầu tiên. Ông còn là chân sút xuất sắc nhất trong lịch sử đội tuyển quốc gia Croatia với 45 bàn thắng.

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Những năm tiên phong[sửa|sửa mã nguồn]

Šuker mở màn chơi bóng tại quê nhà Osijek với câu lạc bộ NK Osijek từ 1984 tới 1989. Sau đó ông chuyển đến Dinamo Zagreb, chơi 2 mùa bóng và ghi được 34 bàn trong 60 trận ở giải vô địch vương quốc Nam Tư. Thành tích ấn tượng này giúp ông được gọi vào đội tuyển Nam Tư và lôi cuốn sự chú ý quan tâm của những đội bóng quốc tế. Năm 1991, ông chuyển tới Tây Ban Nha chơi cho câu lạc bộ Sevilla .

Tại Tây Ban Nha[sửa|sửa mã nguồn]

Šuker đá trận đầu tiên tại Giải vô địch bóng đá Tây Ban Nha cho Sevilla ngày 17 tháng 11 năm 1991, từ băng ghế dự bị ở phút cuối cùng trong trận hoà Espanyol 1-1. Trận tiếp theo gặp Real Sociedad, ông được ra sân ngay từ đầu và ghi bàn gỡ hoà 2-2. Mùa bóng đầu tiên tại Sevilla, Šuker ghi được 6 bàn trong 22 trận. Mùa bóng tiếp theo thành công hơn khi ông ghi 13 bàn trong 33 trận.

Mùa bóng 1993 – 94, ông trở thành một trong những cầu thủ xuất sắc nhất tại La Liga khi ghi tới 24 bàn thắng trong 34 trận với 5 cú đúp và 1 hat-trick, chỉ kém Romário của FC Barcelona. Sau đó, ông còn chơi thêm 2 mùa cho Sevilla, ghi được 33 bàn trong 64 trận ở giải vô địch vương quốc .Ông chuyển tới chơi cho Real Madrid mùa bóng 1996 – 97, và liên tục là một tay săn bàn số 1 với 24 bàn trong 38 trận, là chân sút thứ ba mùa bóng đó, chỉ sau Ronaldo của Barcelona và Alfonso Pérez của Real Betis. Cũng trong mùa bóng này, ông cùng Real Madrid giành thương hiệu vô địch vương quốc. Giấc mơ có được những thương hiệu lớn của Šuker thành hiện thực khi ông cùng Real Madrid vô địch Champions League năm 1998, mặc dầu chỉ ra sân vài phút trong trận chung kết trước Juventus. Mùa bóng 1998 – 99, vai trò của Šuker với câu lạc bộ giảm sút, mặc dầu ông đã có một giải World Cup 1998 thành công xuất sắc. Ông chỉ ghi được 4 bàn trong 19 trận. Cuối mùa bóng, Šuker quyết định hành động rời câu lạc bộ sau ba mùa bóng tranh tài cho Real .Việc rời Real Madrid cũng kết thúc sự nghiệp tranh tài 8 mùa bóng tại Tây Ban Nha của Šuker. Tổng cộng ông có được 114 bàn thắng trong 239 trận đấu .
Mùa bóng 1999 – 2000, Šuker chuyển tới chơi tại giải Ngoại hạng Anh, ký hợp đồng với Arsenal. Trận đấu ra đời của ông tại đây vào ngày 22 tháng 8 năm 1999 trong trận thua 1-2 trước Manchester United tại Highbury, vào sân thay người 15 phút trước khi hết trận. Trận đấu tiên phong Šuker trong đội hình xuất phát là trận thắng Aston Villa 3-1 trên sân nhà, ông ghi 2 bàn tiên phong tại giải Ngoại hạng Anh. Ông ghi tổng số 8 bàn ( có 3 cú đúp ) trong 22 trận đá tại giải vô địch trong màu áo Arsenal, trước khi chuyển sang West Ham United mùa bóng 2000 – 01. Với Arsenal, Šuker tham gia trận chung kết Cúp UEFA năm 2000 từ băng ghế dự bị. Arsenal thua trận chung kết trước đội bóng Thổ Nhĩ Kỳ Galatasaray trên chấm phạt đền, với Šuker đá hỏng lượt sút của mình .Tại West Ham, ông chỉ ra sân 11 trận trong giải Ngoại hạng cả mùa bóng và ghi 2 bàn. Sự nghiệp của ông ở Anh kết thúc vào cuối mùa bóng đó khi ông quyết định hành động chuyển sang Đức chơi cho 1860 Munich mùa bóng 2001 – 02. Tổng cộng ở giải Ngoại hạng Anh ông ghi 10 bàn trong 33 trận đấu .

Tới Đức và giải nghệ[sửa|sửa mã nguồn]

Ở 1860 Munich, cho đến tận vòng 15 của giải đấu, Šuker mới có trận ra đời Bundesliga tiên phong, khi ông chơi đủ 90 phúc trong trận thắng Energie Cottbus 1-0 trên sân nhà. Bàn thắng tiên phong của ông là sau kì nghỉ đông, trong trận thắng 1. FC Köln 3-0 cũng trên sân nhà. Ông ghi 1 bàn bằng đầu ở trận này. Trận đấu tốt nhất của ông ở mùa bóng này ở vòng sau cuối, 1860 Munich thắng 4-2 trên sân Borussia Mönchengladbach. Ông ghi được cú đúp duy nhất tại Bundesliga trong trận này. Kết thúc mùa bóng tiên phong, Šuker có một thành tích rất ít là 4 bàn trong 14 trận .Mùa bóng ở đầu cuối 2002 – 03, ông cũng hiếm có dịp được chơi cho câu lạc bộ và ghi duy nhất 1 bàn trong 11 lần ra sân trong mùa bóng. Bàn cuối của ông vào ngày 2 tháng 11 năm 2002 khi 1860 Munich thắng Arminia Bielefeld 3-1 trên sân nhà và trận đấu sau cuối trong sự nghiệp tranh tài chuyên nghiệp của ông là thất bại 0-1 trước VfB Stuttgart ngày 16 tháng 3 năm 2003. Tổng cộng 2 mùa ở Bundesliga, ông chỉ ghi 5 bàn trong 23 trận đấu [ 2 ]. Trong hai mùa bóng này, ông còn tham gia 5 trận đấu tại Cúp bóng đá Đức và ghi 3 bàn .

Sự nghiệp đội tuyển[sửa|sửa mã nguồn]

Ngay từ khi còn trẻ, Šuker đã ghi được 15 bàn thắng trong 25 lần khoác áo đội tuyển trẻ Nam Tư. Năm 1990, ông được gọi vào đội tuyển Nam Tư tham gia vòng chung kết World Cup 1990 tại Ý, tuy nhiên không có thời cơ ra sân .Ngày 22 tháng 12 năm [ 1990, ông có trận ra đời quốc tế trong màu áo đội tuyển mới xây dựng Croatia trong trận đấu giao hữu gặp Romania. Tuy nhiên vào năm 1991, Šuker có được 2 trận khoác áo đội tuyển Nam Tư [ 3 ], do Croatia chưa được công nhận là thành viên của FIFA và UEFA tại thời gian đó, và ghi bàn thắng quốc tế tiên phong của mình và là bàn thắng duy nhất cho Nam Tư .

Trong trận đấu thứ hai cho Croatia, trận giao hữu với México năm 1992, ông ghi một cú đúp giúp Croatia thắng 3-0. Sau đó Šuker cùng Croatia tham dự giải đấu quốc tế quan trọng đầu tiên, Euro 1996, với một kỉ lục ở vòng loại là 12 bàn ghi được trong 10 trận đấu loại [4].

Tại vòng chung kết ở Anh, Šuker ghi 3 bàn trong 4 trận, trong đó có 2 bàn trong trận đại thắng đương kim vô địch Đan Mạch 3-0 ở vòng bảng. Sau đó, ông cũng góp thêm phần đưa Croatia tham gia vòng chung kết World Cup tiên phong khi ghi được 5 bàn trong 9 trận ở vòng loại World Cup 1998 tại Pháp .Đây là giải đấu thành công xuất sắc nhất trong sự nghiệp của Šuker. Ông giành được thương hiệu Vua phá lưới của giải đấu, ghi 6 bàn trong 7 trận và đưa Croatia tới vị trí thứ ba một cách đầy giật mình so với vương quốc tham gia World Cup lần tiên phong kể từ khi độc lập. Ông góp phần 1 bàn trong mỗi trận Croatia có bàn thắng, ghi những bàn thắng quyết định hành động trong những trận thắng 1-0 trước Nhật Bản ở vòng bảng, Romania ở vòng 16 đội và thắng lợi ở đầu cuối 2-1 trước Hà Lan tại trận tranh vị trí thứ ba. Šuker cũng đưa đội tuyển tiến gần đến chung kết, khi ghi bàn mở tỉ số trong trận bán kết gặp Pháp trước khi Lilian Thuram ghi 2 bàn thắng [ 5 ] đảo ngược tình thế, giúp Pháp thắng 2-1 vào chung kết .Sau World Cup 1998, Šuker liên tục tranh tài cho Croatia ở vòng loại Euro 2000. Tuy ông góp phần 4 bàn trong 7 trận vòng loại nhưng Croatia không vượt qua được vòng loại. Ông cũng xuất hiện trong đội hình Croatia tham gia World Cup 2002 tại Nước Hàn, nhưng chỉ chơi có 63 phút trong trận mở màn gặp Mexico và thua 0-1. Ở vòng loại giải đấu này ông chỉ ghi được 1 bàn trong 6 trận. Sau World Cup 2002, ông kết thúc sự nghiệp quốc tế, trở thành thần tượng của nhiều trẻ nhỏ trên quốc tế, đặc biệt quan trọng tại quê nhà Croatia, nơi ông được coi là anh hùng dân tộc bản địa .Šuker tranh tài tổng số 71 trận đấu quốc tế trong sự nghiệp, 2 trận cho Nam Tư và 69 trận cho Croatia, và ghi tổng số 46 bàn thắng. Kỉ lục ghi 45 bàn cho đội tuyển Croatia còn sống sót vĩnh viễn khi những cầu thủ đứng sau đều ghi chưa tới 30 bàn .

Sau khi giải nghệ cầu thủ[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi kết thúc sự nghiệp cầu thủ, Šuker mở một trường dạy bóng đá, lấy tên Học viện bóng đá Davor Šuker, trung tâm huấn luyện đặt tại thủ đô Zagreb của Croatia và ở một vài thành phố khác.
Ngày 06 tháng 7 năm 2012, Davor Suker đắc cử chức chủ tịch LĐBĐ Croatia (HNS), thay thế Chủ tịch kỳ cựu Vlatko Markovic.

Tháng 11 năm 2003, nhân ngày UEFA kỉ niệm 50 năm xây dựng, Šuker được Liên đoàn bóng đá Croatia bầu chọn là cầu thủ tiêu biểu vượt trội trong 50 năm của Croatia. Tháng 3 năm 2004, ông được Pelé đưa vào list 125 cầu thủ còn sống xuất sắc nhất và là cầu thủ duy nhất của Croatia trong list này .

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Real Madrid[6]

Arsenal

Yugoslavia Youth
Croatia

Thống kê sự nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

[ 9 ]

[1]

Đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Đội tuyển bóng đá quốc gia Nam Tư
Năm Trận Bàn
1991 2 1
Tổng cộng 2 1
Đội tuyển bóng đá quốc gia Croatia
Năm Trận Bàn
1990 1 0
1992 1 2
1993 1 1
1994 5 5
1995 7 8
1996 10 6
1997 7 4
1998 13 12
1999 9 4
2000 4 0
2001 8 2
2002 3 1
Tổng cộng 69 45

Bàn thắng quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *